ĐỀ TÀI
SỐ HÓA LÀN ĐIỆU
HÁT RU TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI BAHNAR Ở KON TUM
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Bahnar là một dân tộc thiểu số
sinh sống tại khu vực Đông Bắc Tây Nguyên, có số dân đông nhất trong các dân
tộc sử dụng ngôn ngữ Môn- Khơ me ở Tây Nguyên. Tại tỉnh Kon Tum, người dân
Bahnar chung sống ôn hòa, bình đẳng với các dân tộc anh em như người Kinh,
Người Gia- rai,...Họ sống chủ yếu ở hai bên bờ sông Đak Bla.
Trong cuộc sống hàng ngày, trong các lễ
hội, đồng bào Bahnar có thể thiếu áo, váy mặc đẹp, thiếu cơm thịt thơm ngon
nhưng không thể thiếu được lời ca, tiếng hát. Qua những khúc hát ấy, mọi người
thêm gần gũi, hiểu nhau hơn và quên đi những mệt nhọc trong lao động; đồng
thời, mỗi bài hát này cũng chính là những bài học đạo đức, giáo dục con người
sống nhân ái hơn, bao dung hơn, yêu thương nhau hơn, lạc quan hơn, yêu lao động
hơn… Điều đặc biệt là trong mỗi người dân, hầu như ai cũng có khả năng ứng tác;
mọi thứ mình làm, mình thấy đều có thể vận vào các làn điệu sẵn có để trở thành
những bài hát mộc mạc, bình dị.
Sinh ra và lớn
lên tại mảnh đất Kon Tum, sống gần gũi với những người
Bahnar hiền lành, chất phác nên chúng tôi có cơ hội giao
lưu văn hóa cồng chiêng với người Bahnar trên địa bàn thành phố Kon Tum. Chúng
tôi được gặp gỡ tiếp xúc với các nghệ nhân người Bahnar; được nghe họ đánh
chiêng, hát dân ca bằng tiếng Bahnar; nghe kể chuyện cổ Bahnah... Được biết
người Bahnar có kho tàng văn hóa phong phú: văn học (sử thi, truyện cổ, câu
đố,...), nghệ thuật (múa xoang, tấu cồng chiêng, chơi đàn T’rưng, đàn
ĐinhPơl,...), kiến trúc (nhà rông, nhà sàn,...), lễ hội (bỏ mả, mừng lúa
mới...). Là dân tộc thiểu số tại chỗ có dân số khá đông ở Kon Tum, dân tộc Bah
Nar cũng là chủ nhân của những sắc màu văn hóa đặc trưng, với kho tàng văn nghệ
dân gian hết sức phong phú, tiêu biểu; trong đó phải kể đến hát ru, với những
nét riêng, độc đáo. Với kho tàng đồ sộ như thế chúng tôi đặc biệt ấn
tượng với những giai điệu hát ru truyền thống của họ. Lời hát ru vừa mộc mạc,
đơn sơ nhưng đủ để thấm vào lòng người.
Chúng tôi đã thực hiện chuyến đi khảo sát
về thực trạng lời hát ru ở các làng như Kơ pâm, KonKlor. Đa phần khi được hỏi
về những lời hát ru thì chỉ có một vài người già là còn nhớ, còn những người
trẻ hôm ấy chúng tôi gặp đều nói họ ru con, ru em bằng máy điện thoại thông
minh với những bài hát đã được cài đặt sẵn. Điều này chứng tỏ đại bộ phận thanh
thiếu niên, nhi đồng người Bahnar hầu như không hề biết đến thể loại hát ru
truyền thống của dân tộc mình.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề
tài: "Số hóa làn điệu hát ru truyền
thống của người Bahnar ở Kon Tum" để khảo cứu, sưu tập và số hóa với
mong muốn: Góp thêm những giai điệu, âm hưởng quen thuộc vào đời sống tinh thần
của người trẻ Bahnar. Từ đó nâng cao ý thức giữ gìn và bảo tồn những làn điệu
hát ru đang dần bị lãng quên của dân tộc mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đưa một số bài hát ru của người Bahnar
không còn lưu truyền, chỉ còn tồn tại dưới hình thức truyền miệng để số hóa
dưới dạng audio và bản nhạc cụ thể, tường minh vào đời sống tinh thần của
trẻ em Bahnar trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá
trị âm nhạc truyền thống nói chung, hát ru của người Bahnar nói riêng, đồng
thời làm phong phú thêm các hoạt động văn hóa tinh thần của trẻ em dân tộc
thiểu số Bahnar.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là tìm hiểu, số hóa các làn
điệu hát ru của người Bahnar xưa.
Phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn ở phương
diện tìm kiếm, sưu tầm và số hóa những làn điệu hát ru đã và đang bị lãng quên.
Đồng thời phạm vi nghiên cứu cũng chỉ áp dụng với các làn điệu hát ru truyền
thống của người Bahnar trên địa bàn tỉnh Kon Tum chứ không áp dụng với các bài
hát ru ở những dân tộc khác.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trực tiếp tiếp xúc đồng bào Bahnar trên
địa bàn tỉnh Kon Tum để tìm hiểu, sưu tầm các bài hát về hát ru của người dân
tộc Bahnar.
- Nghiên cứu thực trạng văn hóa âm nhạc
truyền thống của bộ phận người trẻ Bahnar.
- Nghiên cứu đề xuất các biện pháp để số
hóa các làn điệu hát ru của người Bahnar bằng cách ghi âm, ghi hình và ký âm
lại thành bản nhạc để có thể thuận tiện cho lưu trữ, nghiên cứu và giữ gìn nét
văn hóa truyền thống hát ru.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát thực tế, điền dã thực
tế.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu
tài liệu.
- Phương pháp số hóa.
6. Đóng góp của đề tài
Đây là một đề tài mới
và hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về việc sưu tầm và số hóa các làn
điệu hát ru của người Bahnar. Vì thế, nếu chúng tôi thành công ở đề tài này sẽ
góp phần làm dồi dào thêm kho tàng hát ru và nâng cao sự yêu thích những giai
điệu hát ru truyền thống với trẻ em dân tộc Bahnar. Đồng thời, nguồn tài nguyên
đã được số hóa này sẽ trở thành một kênh thông tin hữu ích và dễ tiếp cận đối
với các nhà nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian.
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Khái quát chung về
thể loại hát ru và đặc điểm hát ru của người Bahnar
1.1.
Khái niệm về hát ru
Hát ru là một thể loại nhỏ nhưng
quan trọng trong thanh nhạc, thường được hát cho trẻ em nghe trước khi
chúng ngủ. Quan niệm ở đây là bài ca được hát bằng một giọng hay và
thân thuộc với bé sẽ ru bé đi vào giấc ngủ.
Xét về lịch sử ra đời, chưa có một nhà
nghiên cứu nào khẳng định thời
điểm ra đời của hát ru mà họ đều cho rằng hát ru
là một trong nhưng thể loại
âm nhạc dân gian ra đời từ rất sớm, bốn thiên
niên kỷ trước, người Babylon
cổ đã bắt đầu sáng tác những bài hát ru như một
món quà mà người mẹ dành
cho đứa con của mình. Đó là một phương tiện hữu
ích đưa em bé vào giấc
ngủ, bằng những giai điệu riêng biệt. Người ta
đã tìm thấy lời bài hát ru đầu
tiên với niên đại khoảng khoảng 2.000 trước Công
nguyên được khắc trên
một phiến đất sét nhỏ vừa vặn lòng bàn tay. Bài
hát được viết dưới dạng chữ
hình nêm, bút viết làm bằng cây sậy. Ở Việt Nam,
hát ru cũng được nghiên
cứu từ nhiều năm trước, song để có một mốc son
cụ thể để đánh dấu sự ra đời của hát ru thì chưa một nhà nghiên cứu nào dám
khẳng định. Tồn tại song song với lịch sử ra đời của hát ru là khái niệm về thể
loại này.
Tùy mỗi vùng, mỗi dân tộc đều có điệu hát
ru được gọi bằng những tên khác nhau và nét nhạc cũng mang màu sắc riêng, nhưng
có những đặc điểm chung như: nét nhạc êm dịu, du dương, trìu mến, tiết tấu êm
dịu, nhẹ nhàng, lời ca giàu hình tượng, dạt dào tình yêu thương tha thiết đối
với em thơ, tất cả những yếu tố đó đã như đôi cánh nhẹ nhàng đưa em bé vào tổ
ấm với giấc ngủ ngon lành. Đối với những người lớn, hoặc những thanh thiếu niên
khi nghe hát ru ít nhiều được sưởi ấm, vỗ về bằng những tình cảm trìu mến của
thời bé thơ, đều có cảm giác gợi nhớ những kí ức xa xưa, những tình cảm yêu
thương thắm thiết cao đẹp của những người thân trong gia đình.Từ những nhận
định trên cho thấy, hát ru là những bài hát trước hết dùng cho việc dỗ trẻ ngủ,
có tiết tấu nhẹ nhàng, nét nhạc êm dịu du dương.
1.2.
Nét nổi bật của hát ru
Trong một cuộc khảo cứu,
những trẻ sinh thiếu tháng được cho nghe các bài hát ru trong 5 phút,
6 lần mỗi ngày thì rõ ràng là lớn nhanh những đứa trẻ tương tự
không được nghe hát ru (theo Chapman, 1975).
Dưới
góc độ khoa học thì hát ru là những kích thích rất có lợi không
những với sự phát triển ngôn ngữ, tâm lí, sinh lí mà còn cả phát
triển thể chất nữa. Đó là sự kích thích tiền đình và nhiều người
đã xác nhận rằng những trẻ hằng ngày được kích thích bằng hát ru
(khoảng 10 phút) thì phản xạ vận động tốt hơn nhiều so với trẻ không
được nghe hát ru (theo nghiên cứu của Đại học Ohio).
Nhịp
điệu của bài hát đem lại cảm giác "an toàn" có thể vì làm
nhớ lại nhịp điệu tim đập nghe được từ những ngày tháng còn trong
lòng mẹ. Giọng nói, tiếng ru của mẹ bên tai cho trẻ biết đang được
người bảo bọc ngay cạnh.
1.3. Đặc điểm hát ru của người Bahnar
Hát ru của người Bahnar có những nét riêng,
trước hết là kiểu cách ru của họ. Đồng bào Bahnar không có nôi, không có võng, thậm chí
giường nằm cũng không vì phải sống và lao động ở môi trường luôn có thú dữ rình
rập nên đứa con phải ở luôn bên mình. Nhỏ thì cõng trên lưng, lớn thì dắt theo
bên cạnh, đàn ông mang rựa ná đi trước, đàn bà mang gùi theo sau. Người mẹ vừa
trỉa bắp, trỉa lúa vừa ru; vừa giã gạo, lấy nước vừa ru. Họ ru không chỉ bằng
lời mà bằng cả hơi ấm và sự chuyển động của thân thể theo những tiết tấu nhịp
điệu của lời ru, vừa êm ái lại vừa nhẹ nhàng.
Người Bahnar có quan niệm rằng,
trẻ con vốn từ trời đất về với con người, có tai nhưng chưa biết nghe, sau lễ
thổi tai người mẹ có nhiệm vụ phải “thông tai” cho con bằng những bài hát ngắn,
mộc mạc dễ nhớ, dễ thuộc báo cho con biết con từ đâu đến, sẽ ở với ai và phải
làm gì cho dân làng thương, làng quý. Lời hát như lời nhắn nhủ tâm tình chan
chứa yêu thương.
Hát ru của người Bahnar không chỉ ở người mẹ
mà ở cả người bà, người chị. Trẻ con là tài sản của làng, ai cũng phải có trách
nhiệm nâng niu, bảo vệ. Bằng những lời hát ru mượt mà, êm ái và đầm ấm của chị,
đứa em đã dần đi vào giấc ngủ say để cho mẹ làm việc nhà, mẹ se chỉ dệt
vải, mẹ đi làm ruộng, đi hái rau,… bố đi bắt ếch, bắt cá,…về cho chị em ăn, cho
gia đình ăn. Công việc ru em, trông em tưởng chừng đơn giản nhưng không mấy dễ.
Chị ru em phải nhẹ nhàng, khéo léo, cho em ngủ ngon giấc, không để em khóc.
1.4. Đối chiếu nét riêng đặc sắc so với hát ru của
người Kinh
Từ bao đời nay, với các thế hệ người
Việt Nam, giấc ngủ tuổi thơ luôn gắn liền với những lời ru êm đềm, ngọt ngào.
Đó là tình yêu, là mạch nguồn sự sống, nuôi dưỡng tâm hồn, góp phần hình thành
và phát triển nhân cách con người. Với người Kinh, lời ru thường được cất lên
bởi tiếng “ầu ơ…” của bà, của mẹ: “Ru con mẹ ru con, tiếng ru cả cuộc đời. Ru
con lời ru cất lên từ ngàn đời…”, “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ. Năm canh chầy
thức đủ vừa năm…”, “…Ngủ đi con, ngủ ngon lành. Lớn lên nối nghiệp cha anh thuở
nào. Ngủ đi con, mẹ tự hào. Có con có cả đồng bào của con…”
Với người Bahnar ở Kon Tum, ông A Jar (làng Plei
Đôn, phường Quang Trung, thành phố Kon Tum) - người say mê nghiên cứu, sưu tầm
và khá am hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Kon Tum - cho chúng
tôi biết: người Bahnar gọi hát ru là Hơlung oh, người Bahnar Rơngao gọi là Lông
oh, đều có nghĩa là ru em. Và trong số các bài hát ru tiêu biểu của người Ba
Na, phần lớn đều là “Mơmai hơlung”, có nghĩa là “Chị hát ru em” như: Nẽ nhâm oh
ơi! Mẽ oei peh tra. Thẽng thẽng oh ơi. Mẽ oei jra hau …(Đừng khóc nữa em! Mẹ
mắc giã lúa. Nín đi em ạ! Mẹ bận sàng gạo…); hoặc Nẽ nhâm oh ơi! Bă oei dăng
năk. Thẽng thẽng oh ơi. Bă oei năk pam… (Đừng khóc em ơi! Cha bận giăng lưới.
Thôi nín đi em. Cha mắc đặt đơm…); Nẽ nhâm ơ oh mã pơmãi eng kơdih.Thẽng
thẽng ơ oh mẽ oei tanh brai wai khăn. Mẽ tanh ăn kơ ba mẽ wã pơyua kơ ũnh
hnam.Thẽng thẽng eng oh eng bân đei khăn’ nao đei ao plâng…(Đừng khóc nữa em,
em cưng của chị. Nín đi em, mẹ đang còn se chỉ dệt vải. Mẹ dệt chăn cho em và
cho cả chúng ta. Nín đi em…).
Cũng không khó để lý giải về nét riêng này, bởi
với người Ba Na và một số dân tộc thiểu số khác, trước đây do điều kiện cuộc
sống khó khăn, đời sống lạc hậu, sinh đẻ nhiều, cha mẹ luôn phải tất bật với
các công việc hàng ngày; đặc biệt, người mẹ thì lại vất vả nhiều hơn, từ việc
đi lấy củi, lấy nước, đi hái rau rừng về nấu ăn, đến việc đi trỉa lúa, trỉa bắp
ngoài nương rẫy, lúc rảnh rỗi mẹ lại cặm cụi xe chỉ dệt vải…, vì thế trong hầu
hết các gia đình, chị gái thường là người phải thay mẹ trông em, ru cho em ngủ.
Ru em, trông em, công việc tưởng chừng như đơn
giản nhưng lại không dễ chút nào. Phải thật kiên trì, khéo léo, chị mới có thể
dỗ dành cho em hết khóc. Bằng tình thương, sự chịu đựng, bằng những câu hát mộc
mạc, đơn sơ của chị kể về nỗi nhọc nhằn, về công việc hàng ngày của cha, của
mẹ, dường như đã giúp em cảm nhận được, em không đòi theo cha mẹ lên nương rẫy
nữa, em ngủ ngon để cha mẹ yên tâm đi làm: “…Thẽng thẽng oh thẽng. Tep dah tep
eng oh eng. Bôh mẽ tõ đon, mẽ sớ ngon oh nhân lũk./… Nín đi em. Em hãy ngủ đi em cưng
của chị. Đừng để mẹ bồn chồn khi nghe tiếng em khóc”…
Chương 2. Thực
trạng đề tài và đề xuất giải pháp
2.1. Thực trạng việc hát ru ở đồng
bào Bahnar Kon Tum
Nếu như trước kia,
lời ru được cất lên bên mái tranh nhà rông, sau lũy tre làng, giữa trưa
hè hay đêm đông là điều hết sức phổ biến thì ngày nay lời ru là của
quý hiếm trong cuộc sống. Khó có thể tìm được một lời ru con nơi
phố thị. Nhiều bà mẹ, ông bố trẻ quan niệm phải hát hay mới ru con.
Điều đó không đúng, bởi giọng ru thể hiện phần lớn ở sắc thái tình
cảm, có tình thương, sự chăm bẵm, đượm nồng mồ hôi của người lớn mà
trẻ có thể cảm nhận được, trẻ sẽ có thói quen bén bện hơi hướng
máu mủ ruột rà.
Trẻ em học sinh người Bahnar hiện nay hầu như
không tiếp cận được với làn điệu hát ru của dân tộc mình. Các em mong muốn có
những buổi giao lưu, tìm hiểu về những làn điệu hát ru truyền thống của bà của
mẹ. Đồng thời thông qua những bài hát ru dễ thuộc, dễ nhớ các em cũng có cơ hội
hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa sâu sắc mà bài hát muốn truyền đạt bao gồm cả tiếng mẹ
đẻ lẫn tiếng Kinh.
Nguyên nhân của thực
trạng:
Nhịp sống hiện đại diễn ra hối
hả cùng nhiều loại hình văn hóa giải trí hiện đại. Nhiều ca khúc
mới đương đại nổi đình đám nhưng nghe một lần rồi trôi tuột đi. Lối
sống hiện đại làm con người ít có điều kiện thời gian chăm sóc gia
đình, con cái. Cáu giận, tâm tính hay bức xúc, nóng nảy thường thấy
ở tất cả các đối tượng, trong đó không ngoại trừ phụ nữ và trẻ em.
Điều đó làm sâu sắc thêm hệ lụy tất yếu cho xã hội là nạn bạo
hành gia tăng, tình trạng ly hôn, bất hiếu, cha mẹ chối bỏ con cái,
trẻ em phạm tội,.. cũng gia tăng. Nhịp sống thường ngày ở nhiều khu
dân cư đã mất hẳn tiếng ru êm đềm, thư thái mà thấm đẫm hồn dân tộc.
Từ phía
cộng đồng dân tộc người Bahnar, văn hóa hát ru đã dần bị mai một (văn hóa hát
ru bị mai một vì đời sống hiện đại, những người già biết về hát ru mất đi,
những người mẹ trẻ lại không mấy mặn mà trong việc tiếp nối truyền thống,...).
Việc sưu tầm và lưu giữ làn điệu hát ru trong dân gian hầu như không được thực
hiện, vì thế những làn điệu hát ru truyền thống đứng trước nguy cơ bị quên
lãng.
Từ bản
thân các em – những thế hệ trẻ tương lai của đồng bào Bahnar tiếp xúc với âm
nhạc một cách ồ ạt, chạy theo thị hiếu, các em hầu như không quan tâm đến âm
nhạc truyền thống của dân tộc mình có gì, đang đứng trước nguy cơ bị mai một ra
sao. Điều này cho thấy đây là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến các
làn điệu hát ru không có người tiếp nối, bảo tồn và gìn giữ.
Dẫn chứng cụ thể từ khảo sát thực tế:
Biểu đồ thể hiện số người biết về làn điệu hát ru
Qua biểu đồ trên, có
thể nhận thấy: Số lượng người từ 8-15 tuổi hầu như không biết về hát ru. Số lượng người
từ 15-55 tuổi có một vài người biết về hát ru nhưng họ chỉ biết một vài câu bập
bẹ. Và số lượng người từ 55 tuổi trở lên đa số đều biết và có thể hát.
2.2. Đề xuất giải pháp
Lời ru đến nay chưa thể mất, nhưng
theo chúng tôi, lời ru đang bị khuất lấp trong
cuộc sống bề bộn, cần phải đánh thức bằng những biện pháp cụ thể
như:
- Tích cực tuyên truyền, nâng cao
ý thức, trách nhiệm của các thế hệ người dân về ý nghĩa, tác
dụng, thực trạng mai một và sự cần thiết bảo tồn, phát huy lời ru
hiện nay. Liên hoan hát ru và dân ca từ trước đến nay diễn nay ở khá
nhiều địa phương, tổ chức, ban ngành. Ở hầu hết các cuộc liên hoan
này, chất lượng hát ru, dân ca đều hoạt động ở tầm nghệ thuật, ấn
tượng và thu hút đủ các giới, lứa tuổi tham gia. Các hoạt động ấy
đều tạo điểm nhấn cho phong trào quần chúng hát ru. Phong trào này
đã được khuấy động ở nhiều địa phương nhưng mới chỉ dừng lại trên
sân khấu mà chưa được phổ biến thường xuyên trong cuộc sống.
- Thông qua các trang mạng xã hội phổ biến như
“Kon Tum trong tôi”, “Tôi yêu Kon Tum” để đăng tải những video hình ảnh về hát
ru. Điều này không chỉ giúp hát ru của người Bahnar đến gần hơn với cộng đồng
người Kinh mà còn có giá trị to lớn trong việc quảng bá
nét đẹp của văn hóa hát ru truyền thống của dân tộc Bahnar.
- Lời bài hát ru được tổng hợp dưới dạng tuyển
tập nên được chia sẻ và truyền bá rộng rãi trong các tủ sách văn hóa của cộng
đồng địa phương.
- Để góp phần lưu giữ và truyền bá các làn điệu
hát ru một cách thuận lợi, chúng ta cần tiến hành số hóa cho phù hợp với thời
đại công nghệ 4.0.
Chương 3. Tìm hiểu về số hóa
và phương pháp tiến hành số hóa
3.1. Số hóa
là gì?
Số hóa là hình thức
hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số. Chẳng hạn như số hóa tài liệu dạng giấy với nhiều khổ
cỡ, xuất ra nhiều dạng tập tin khác nhau như tif, jpg, pdf, bmp.
3.2. Phương pháp tiến hành số hóa
1. Tạo phụ đề chạy chữ cho mỗi bài
hát bằng tiếng Bahnar và cả tiếng Việt nhờ phần mềm Aegisub.
2. Ký âm và sử dụng phần mềm Encore để viết thành bản nhạc.
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
và đề xuất
4.1. Kết quả
nghiên cứu
4.1.1. Số hóa làm điệu hát ru bằng văn
bản
Tuyển tập gồm 11 bài
hát ru của người dân tộc Bahnar được in thành 2 thứ tiếng Việt – Bahnar (trong
đó có 3 bài chúng tôi sưu tầm và soạn theo lời của bà cụ Gyui – 65 tuổi ở làng
Kơ pâm - TP Kon Tum, 2 bài chúng tôi sưu tầm và soạn theo lời của nghệ nhân Y Blưi
– 70 tuổi ở làng Kơ pong – TP Kon Tum,
và 6 bài còn lại chúng tôi sưu tầm, tổng hợp từ nghệ nhân A
Jai – 72 tuổi ở xã Ngọc Réo, huyện Đak
Hà – TP Kon Tum).
4.1.2. Số hóa làn điệu hát ru thông
qua ký âm thành bản nhạc:
Hai bài hát ru em "Lung oh"
và "Holung Oh" đã được ký âm và
số hóa
thông qua phần mềm
Encore tạo thành bản nhạc hoàn chỉnh
và tường minh dễ dàng tiếp nhận dưới nhiều hình thức.
4.2. Tính mới
của đề tài
Mang làn điệu hát ru
truyền thống của người Bahnar đến gần hơn với trẻ em Bahnar dưới hình thức âm
nhạc để đưa vào những buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp hoặc là những buổi sinh
hoạt địa phương. Điều này góp phần giáo dục, nâng cao tính cảm xúc thẩm mĩ cho các em thông qua các câu hát
giản dị mà chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Tuyển tập 11 bài hát
ru song ngữ Việt – Bahnar vừa giúp trẻ em Bahnar tiếp cận với giai điệu hát ru
quen thuộc của dân tộc mình, vừa rèn luyện thói quen gìn giữ âm nhạc truyền
thống. Đồng thời, tuyển tập này không chỉ được truyền bá đến các trẻ em Bahnar
mà còn mở rộng hơn đến với các trẻ em dân tộc khác. Khơi dậy trong các em niềm tự hào về kho tàng
dân ca cụ thể là làn điệu hát ru truyền thống của dân tộc mình, từ đó giúp trẻ
em Bahnar có ý thức lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc.
Đặc biệt, đề tài đã đề xuất
được một giải pháp số hóa làn điệu hát ru bằng cách ký âm lại và dùng phần mềm
Encore chuyển thành bản nhạc số để thuận tiện hơn cho việc lưu trữ, nghiên cứu
và truyền bá.
III.
PHẦN KẾT LUẬN
Đề tài "
Số hóa làn điệu hát ru truyền thống của người Bahnar ở Kon Tum" có ý
nghĩa thiết thực trong đời sống văn hóa tinh thần của giới trẻ, đặc biệt là với
trẻ em Bahnar. Bởi những bài hát được sưu tầm và chọn lọc phù hợp với lứa tuổi
thanh thiếu niên, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, gắn với đời sống văn hóa của
người Bahnar.
Với các sản phẩm:
- Tuyển tập gồm 11 bài hát ru của người dân tộc Bahnar được in thành 2 thứ
tiếng Việt – Bahnar (trong đó có 3 bài chúng tôi sưu tầm và soạn theo lời của
bà cụ Gyui – 65 tuổi ở làng Kơ pâm - TP Kon Tum, 2 bài chúng tôi sưu tầm và
soạn theo lời của nghệ nhân Y Blưi – 70 tuổi ở làng Kơ pong – TP Kon Tum, và 6 bài còn lại chúng tôi sưu tầm,
tổng hợp từ nghệ nhân A Jai – 72 tuổi ở xã Ngọc Réo, huyện Đak Hà – TP Kon Tum).
- Hai bản nhạc "Lung oh" và "Holung Oh" được số
hóa dưới dạng encore khuôn nhạc hoàn chỉnh và tường minh dễ dàng tiếp
nhận dưới nhiều hình thức. Chúng tôi mong muốn góp phần nâng cao văn hóa nghe nhạc
truyền thống, nâng cao sự hiểu biết về văn hóa truyền thống cho giới trẻ Bahnar
và học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
Đề tài của chúng tôi hoàn thành
là do sự nỗ lực, tâm huyết của bản thân chúng tôi, sự tận tình của giáo viên
hướng dẫn, sự hỗ trợ, động viên của Ban giám hiệu trường THPT Chuyên Nguyễn Tất
Thành. Đồng thời chúng tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của người dân làng
Kơ pâm và KonKlor trong quá trình đi khảo sát, các cô chú tại thư viện tỉnh Kon
Tum.
Tuy vậy đề tài của chúng tôi
vẫn chưa được hoàn thiện như mong muốn. Vì thế chúng tôi mong muốn nhận được ý
kiến đóng góp của các chuyên gia thẩm định, các thầy cô giáo để đề tài hoàn
thiện hơn trong thời gian tới.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
------------------------------------------
0 Nhận xét