SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN: DẠY HỌC TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG TRONG MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT

 


DẠY HỌC TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG TRONG MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT


I. LỜI NÓI ĐẦU:

Trường THPT hiện có 12 lớp học. Trong đó, học sinh đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 68 phần trăm, học sinh dân tộc Kinh chiếm 32 phần trăm.

Trường được xây dựng khang trang, đội ngủ giáo viên trẻ, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, cơ sở vật chất khá đảm bảo cho việc dạy và học.
Bản thân tôi hiện đang đảm nhiệm bộ môn Ngữ Văn của nhà trường. Bên cạnh việc đảm bảo chương trình dạy học thì song song với quá trình công tác tôi đã quan sát, tìm hiểu và nghiên cứu một số vấn đề.

Trong đó, vấn đề về kỹ năng sống của học sinh được tôi chú ý và quan tâm.

1. Lý do chọn đề tài:

Đối với học sinh trường chúng tôi, đa số các em là người đồng bào dân tộc thiểu số cho nên việc tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế. Bộ môn ngữ văn không chỉ cung cấp kiến thức mà còn bồi dưỡng xây đắp tâm hồn cho các em, việc tiếp thu các đơn vị tri thức của các em trong bộ môn đã khó và để tích hợp kỹ năng sống vào các bài học cho các em cũng là điều không hề đơn giản.

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, để trang bị cho các em những kiến thức và những kỹ năng sống cần thiết là một điều vô cùng quan trọng. Như chúng ta đã biết, cuộc sống hiện đại bao giờ cũng có hai mặt. Mặt phải là các em được thụ hưởng những giá trị đích thực mà cuộc sống đem lại. Mặt trái là những hệ lụy từ chính cuộc sống hiện đại, như các tệ nạn xã hội, mà đối tượng có khả năng chịu ảnh hưởng lớn nhất chính là các em ở lứa tuổi học sinh.

  Trang bị cho các em những kiến thức cơ bản, cần thiết về những kỹ năng sống nhằm mục đích giúp các em ứng phó với những vấn đề nhạy cảm mà xã hội hiện đại tác động trực tiếp hay dán tiếp là một điều quan trọng. Đó chính là lí do mà bản thân tôi luôn trăn trở.

   2. Sơ lược lịch sử vấn đề:

Tổ chức Y tế Thế giới WHO định nghĩa kỹ năng sống là "khả năng thích nghi  hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày". Trong giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, kỹ năng sống có thể là một tập hợp những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hóa; ví dụ cuộc sống bao gồm quản lý tài chính (cá nhân), chuẩn bị thức ăn, vệ sinh, cách diễn đạt, và kỹ năng tổ chức...

Cũng theo WHO, kỹ năng sống được chia thành 2 loại là: kỹ năng tâm lý xã hội và kỹ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy, với 10 yếu tố như: tự nhận thức, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng phó với các tình huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thông, tư duy bình luận và phê phán, cách quyết định, giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết .

 

 

3. Phạm vi đề tài:

     Vấn đề của bài viết đặt ra là làm sao hình thành kỹ năng sống cho các em học sinh thông qua việc tích hợp giảng dạy trong bộ môn Ngữ văn. Phạm vi đề tài nằm trong khuôn khổ chủ yếu là đối tượng học sinh và những kiến thức trong chương trình giáo dục. Đây là đề tài mang tích mở, nhưng với phạm vi cho phép chúng tôi xin được lấy học sinh làm đối tượng trung tâm. Phạm vi đề tài nghiên cứu ở hai trong 10 yếu tố của kỹ năng sống: kỹ năng giao tiếp ứng xử và kỹ năng ứng phó với môi trường xã hội.

 II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:

1. Thực trạng tình hình:

Mặc dù không có điều kiện như học sinh các vùng miền khác nhưng học sinh trường THPT Hương Giang vẫn rất cố gắng học tập và lao động theo các kế hoạch do nhà trường và các đoàn thể đưa ra. Tuy nhiên, do tác động của cuộc sống hiện đại cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin ...nên bên cạnh những mặt tích cực còn có những hạn chế của nó đem lại.

 Đa số học sinh của trường chúng tôi ngoan, hiền và lễ phép. Tuy nhiên, vẫn còn một số học sinh có biểu hiện chưa tích cực. Điều này cũng không hoàn toàn do lỗi của các em mà thực tế nhìn nhận là có một phần lớn trách nhiệm của nhà trường nói chung và bản thân tôi nói riêng. Tình trạng một số em đi học vẫn còn nhuộm tóc, nói tục , chửi thề, ngôn ngữ giao tiếp còn thô thiển, hạn chế vẫn còn diễn ra…

Nhận thức được vấn đề trên , bản thân tôi đang đảm nhận bộ môn ngữ văn vô cùng áy náy và nhiều lần suy nghĩ. Làm sao để tất cả học sinh không còn vi phạm các nội quy của nhà trường đặt ra, làm sao để trang bị cho các em những kĩ năng sống cần thiết để các em thấy tự tin hơn trong học tập, giao tiếp…đó là những câu hỏi mà bản thân tôi luôn trăn trở.

 

2. Những hạn chế, khó khăn:

2.a Về bản thân

Tuy công tác đã được gần 6 năm, phần nào hiểu và nắm bắt được tâm sinh lí của hầu hết học sinh vùng miền ở đây, song bên cạnh đó bản thân tôi vẫn còn một số khó khăn nhỏ như: con còn dại, việc thông thạo tiếng Katu còn nhiều hạn chế nên chưa hiểu hết những suy nghĩ, tâm lí, thuộc tính của học sinh trong trường.

2.b Về học sinh

Đa phần học sinh là con em đồng bào thiểu số, nên việc tiếp nhận ngôn ngữ tiếng Việt có phần hạn chế, điều kiện kinh tế, điều kiện học tập, đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Có nhiều em nhà cách trường 9 đến 10 km, một số em không có phương tiện đi lại, phải học hai buổi trong ngày như học nghề, thể dục, quốc phòng... Những vấn đề này ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe, chất lượng học tập và khả năng lĩnh hội những giá trị cuộc sống.

 

III. GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ:

Từ những thực trạng trên, bản thân tôi xin được đưa ra hai giải pháp:

1.     Hình thành kỹ năng giao tiếp trong gia đình, nhà trường và xã hội

2.     Hình thành kỹ năng ứng phó với môi trường xã hội

 ... nhằm giúp các em hoàn thiện hơn trong cuộc sống, để trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Việc tích hợp các kĩ năng sống trong bộ môn ngữ văn đòi hỏi ở người giáo viên những phẩm chất tốt, phải luôn luôn chịu khó, học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, tri thức, luôn lắng nghe tâm tư nguyện vọng của học sinh, luôn là người đi đầu trong mọi hoạt động, luôn giúp đỡ học sinh. ...

1.Giải pháp 1: Hình thành k năng giao tiếp trong gia đình, nhà trường và xã  hội

1.1 Hình thành k năng giao tiếp trong gia đình

1.1 a K năng giao tiếp :

Đây là k năng rất quan trọng bởi vì có giao tiếp tốt sẽ tạo ra được hiệu quả giao tiếp. Điều này giúp các thành viên trong gia đình hiểu hơn con em của họ và biết được những tâm tư nguyện vọng, cũng như những thay đổi về mặt tâm sinh lí , để từ đó có hướng điều chỉnh, giáo dục tốt hơn.

Từ những kiến thức ở nhà trường chúng tôi đã nghiên cứu và tích hợp các k năng giao tiếp bằng cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết vào dạy học.

Đối với ngôn ngữ nói, khi giao tiếp với ông bà cha me, hoặc những ngưi có độ tuổi lớn hơn, các em phải sử dụng ngôn ngữ nói sao cho phù hợp. Khi giao tiếp phải lễ phép, sử dụng các từ ngữ mang sắc thái khác nhau. Chẳng hạn khi nói chuyện với ông bà, cha mẹ.. thì phải sử dụng các từ như: dạ thưa, thưa ông, thưa bà, dạ vâng, ...Ví dụ: “ Thưa ông, cho cháu hỏi ...”,Xin mời ông ăn cơm”...

Đối với ngôn ngữ viết, khi viết một văn bản phải sử dụng các từ ngữ phù hợp với từng phong cách văn bản. Một số bậc phụ huynh là người đồng bào, do hoàn cảnh khó khăn, không có điều kiện học tập, nên muốn viết một văn bản nào đó thì nhờ các em học sinh . Chính vì vậy chúng tôi cũng hướng dẫn cho các em viết như thế nào cho đúng. Trước hết là viết đúng chính tả, sau đó chú ý đến văn phong, ngôn ngữ phải phù hợp với từng văn bản.

1.1b K năng thực hành:

Đây cũng là k năng khá quan trọng. Bởi nó sẽ giúp cho các em làm việc một cách có hiệu quả, thông qua hướng dẫn bảng phân chia thời gian biểu một cách hợp lí, tuỳ từng đối tượng mà có hướng điều chỉnh.

Ngoài việc học các em còn phải phụ giúp gia đình làm các công việc như: nấu cơm, giặt áo , trông em, gánh nước, làm nương, rẫy, kiếm cũi...Đây là những công việc chiếm rất nhiều thời gian, nếu như không tính toán và không có những k năng phù hợp sẽ dẫn đến công việc không hiệu quả và mất thời gian. Nếu mất thời gian các em sẽ không có thời gian dành cho việc ôn tập và soạn bài ở nhà. Cho nên cần phải biết phân chia thời gian hợp lí, lựa chọn những công việc phù hợp với sức khoẻ và giới tính sẽ giúp các em làm việc tốt hơn. K năng này phải kết hợp với tư duy logich thì công việc mới hiệu quả.

1.2 : Hình thành kỹ năng giao tiếp ở nhà trường :

1.2 a K năng giao tiếp :

 Trong môi trường giáo dục, bao giờ cũng phải có khuôn khổ và giới hạn của nó. Sự lễ phép đối với thầy cô là điều không thể không chú ý và phải thực hiện đúng.

Tôn trọng bạn cùng lớp, cùng trường trong ngôn ngữ giao tiếp cũng khá quan trọng. Bởi lẽ, trong môi trường này ngoài tiếp thu những kiến thức mà thầy cô truyền đạt, các em còn tự học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau trong học tập. Chính vì vậy trong giao tiếp cũng cần hình thành k năng này ngay từ đầu của cấp học.

Học sinh lớp 10 là điểm gạch nối giữa trẻ con và người lớn, cho nên tích hợp  các kỹ năng sống một cách khéo léo, tế nhị nhằm giúp các em có được những k năng giao tiếp cần thiết là việc mà chúng tôi đã và sẽ tiếp tục thực hiện.

1.2 b K năng thực hành :

Bên cạnh k năng giao tiếp, k năng thực hành cũng khá quan trọng, bởi lẽ chính nhờ k năng này mà các em sẽ biết được điểm mạnh và những hạn chế của mình. Từ đó có hướng học tập tốt hơn.

Hiện tại, ngoài tổ chức Đoàn, hội LHTN ra trường chỉ mới thành lập được một câu lạc bộ “ Màu xanh mới”. Thiết nghĩ chúng ta cần tổ chức nhiều hơn các buổi ngoại khoá, thành lập nhiều hơn các nhóm, câu lạc bộ nhằm tạo sân chơi lành mạnh. . Thông qua các nhóm, CLB với nhiều hình thức sinh hoạt vui chơi khác nhau, sẽ giúp các em hình thành dần các k năng thực hành, kỹ năng ứng phó với những thay đổi của môi trường xung quanh. Theo cá nhân tôi, nhà trường cần thành lập thêm các nhóm, CLB như câu lạc bộ Tình nguyện xanh, Đội công tác xã hội, Đội thanh niên xung kích Chữ thập đỏ như mô hình của trường THPT Quốc Học – Huế và một số đơn vị giáo dục khác.

Công việc trên nhằm tạo ra sân chơi lành mạnh, bổ ích, giúp các em giải trí sau những giờ học căng thẳng, hình thành tốt các knăng thực hành trong cuộc sống.

 

1.3: Hình thành kỹ năng giao tiếp xã hội

1.3 a K năng giao tiếp :

Đây là k năng khá quan trọng, đặc biệt là học sinh khối 12, sau khi tốt nghiệp các em sẽ chọn cho mình một ngành, nghề hoặc sẽ tiếp tục học và thi đại học, cao đẳng... Chính vì vậy giao tiếp đúng mực, đúng đối tượng sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong việc chọn ngành, nghề.

   1.3 b K năng thực hành :

Xã hội có rất nhiều thành phần, nên khi phải va chạm thực tế các em sẽ khó tránh khỏi sai phạm. Tuy nhiên, nếu sử sụng ngôn ngữ giao tiếp phù hợp với từng đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp sẽ giúp ích cho các em rất nhiều, tránh những điều thiệt thòi, đáng tiếc có thể xảy ra.

Biết lắng nghe và quan sát cũng là hai k năng cơ bản giúp các em nhìn nhận thế giới xung quanh và có những quyết định đúng đắn khi giao tiếp ( kể cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết)

Có thể nói, để giúp các em có được những kĩ năng như đã nêu ở trên thì sự phối kết hợp một cách đồng bộ, nhịp nhàng của cả gia đình, nhà trường và xã hội là điều rất cần thiết.

 

 

2. Giải pháp 2: K năng ứng phó với môi trường xã hội

2.1 Khái niệm:

2.1a  K năng ứng phó :

K năng ứng phó là k năng mà học sinh có được nhờ sự tự tích luỹ những k năng cơ bản do được đào tạo ở nhà trường, giáo dục của gia đình, sự chia sẽ từ phía xã hội...nhằm ứng phó, đối mặt với những thách thức, những nguy cơ và cả những biến động từ xã hội tác động mà các em khó lường trước.

   2.1b  Môi trường xã hội:

Môi trường xã hội  môi trường  con người là nhân tố trung tâm, tham gia và chi phối môi trường.

Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, thể thao, lịch sử, giáo dục... xoay quanh con người và con người lấy đó làm nguồn sống, làm mục tiêu cho mình. Môi trường xã hội tốt thì các nhân tố cấu thành môi trường sẽ bổ trợ cho nhau, con người sống sẽ được hưởng đầy đủ các quyền: sống, làm việc, cống hiến, hưởng thụ...

Nhưng con người chúng ta cũng sẽ rất dễ dàng bị môi trường xã hội tác động và chi phối nếu không đủ bản lĩnh.

   2.2 Nội dung:

Ở lứa tuổi học sinh, tâm sinh lí còn chưa ổn định, nên những tác động của môi trường xã hội với các em là rất nhanh chóng. Ở đây tôi xin nhấn mạnh đến sự tác động tiêu cực của môi trường xã hội đến học sinh. Đó là  các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu bia, ma tuý, trộm cắp, văn hoá độc hại ...

Như chúng ta đã biết, hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, đặc biệt là báo mạng, càng ngày xuất hiện càng nhiều các trang web độc hại. Nếu không có sự quản lí  chặt chẽ thì các em sẽ dễ dàng bị tác động, làm vẫn đục tâm hồn các em. Hơn nữa, ngày càng xuất hiện nhiều trò chơi Game onlie mang tính chất bạo lực, bắn súng, đua xe, đâm chém loạn xạ...

Báo chí, truyền thông cũng không ít lần phản ảnh, đưa tin. Nhưng, càng ngày càng có nhiều vụ án giết người nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, mà đối tượng gây án đa phần là ở độ tuổi thanh thiếu niên.

Một vấn đề nữa cần nêu ra đó chính là nạn tảo hôn trong nhà trường vẫn còn xảy ra. Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn các buổi ngoại khóa về sức khoẻ sinh sản vị thành niên, có bài bản, định kì, chứ không nên tổ chức qua loa cho xong chuyện.

Thiết nghĩ, chúng ta cần phải nổ lực hơn nữa nhằm giúp các em định hướng được những tác hại mà môi trường bên ngoài tác động. Cần giúp các em phân biệt được đâu là những văn hóa lành mạnh, đâu là những tác hại của các tệ nạn xã hội.

Hình thành k năng ứng phó, chống lại những ảnh hưởng xấu mà môi trường xã hội mang lại không đơn giản chỉ có gia đình, nhà trường mà chính quyền điạ phương cũng nên hết sức quan tâm, chú ý. Không chỉ riêng giáo viên bộ môn Ngữ văn mà các bộ môn khác cũng nên quan tâm, thường xuyên lồng ghép, tích hợp nhằm nâng cao các k năng sống, đặc biệt là knăng ứng phó với môi trường xung quanh. Có như vậy mới tạo ra một môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn, và hơn hết là cho chính cuộc sống , tương lai của các em.

Do đặc thù là miền núi, các em hiểu khá rõ vai trò quan trọng của rừng mang lại, tuy nhiên cũng có một số học sinh  nhận thức kém cho nên đã đi theo những thành phần không tốt vào rừng sâu khai thác gổ và các sản vật mà nhà nước cấm. Đây cũng là vấn đề đáng báo động. Vì vậy, bản thân tôi trong quá trình dạy học cũng không ngừng lồng ghép, tích hợp kĩ năng sống nhằm giúp các em hiểu và nhận thức rõ vai trò vô cùng quan trọng mà rừng đầu nguồn đem lại. Nhằm mục đích giảm thiểu tối đa tình trạng học sinh bỏ học vào rừng sâu khai thác lâm sản trái phép.

Hình thành nhân cách cho học sinh, rèn luyện cho các em tính tự giác, trung thực và ngay thẳng cũng được chúng tôi lồng ghép, đưa vào trong chương trình dạy học. Thông qua một số tác phẩm văn học như: “ Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” SGK – ngữ văn 10, chúng tôi cho các em tự tổ chức thảo luận, trao đổi những câu hỏi về tính trung thực, ngay thẳng. Tuổi trẻ không nên mềm yếu trước cái xấu, cái ác mà phải nên cứng cỏi, nếu sợ sệt mà tỏ ra mềm yếu thì không nên. Hành động và suy nghĩ của nhân vật Ngô Tử Văn là một trong những tấm gương để các em học tập.            

Ngoài ra chúng tôi cũng tham gia cùng tổ chuyên môn, Ban giám hiệu, phối kết hợp với Đoàn trường để tổ chức thành công các buổi ngoại khóa giúp các em hiểu biết thêm về lịch sử, truyền thống của địa phương, quê hương, đất nước.

 

3. Kết quả

Sau một thời gian triển khai tích cực những kế hoạch và các giải pháp trên chúng tôi đạt được một số kết quả như sau:

100 phần trăm học sinh trường THPT Hương Giang không vi phạm các tệ nạn xã hội như: cờ bạc,  rượu chè, mua bán tàng trữ trái phép các chất ma túy... Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép. Đối với gia đình, thầy cô các em rất kính trọng, lễ phép, biết nghe lời. Các em chăm học hơn, có các hành vi giao tiếp, ứng phó với môi trường xung quanh tốt hơn, sống lành mạnh hơn...

Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà các em chưa đạt được, đó là tình trạng tảo hôn vẫn còn, một số học sinh phải bỏ học đi làm ăn xa do gia đình quá khó khăn. Mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng vận động, tìm hiểu trao đổi với gia đình, chính quyền địa phương nhưng vẫn không đạt hiệu quả cao.

       

  IV. KẾT LUẬN:

1.     Tóm lược giải pháp:

           Trong quá trình triển khai đề tài, gặp không ít khó nhăn nhưng bản thân luôn cố gắng nổ lực để thực hiện tốt kế hoạch đã đề ra. Tuy kết quả mà các em học sinh đạt được chưa như mong muốn, nhưng bước đầu đã phần nào trang bị được cho các em những kỹ năng sống phù hợp, giúp các em vững tin hơn trong học tập và lao động.

2. Phạm vi áp dụng đề tài:

Với đề tài này, chúng ta có thể áp dụng cho  các trường THPT, THCS và một số đơn vị giáo dục trên địa bàn của tỉnh.

      3. Bài học kinh nghiệm, kiến nghị:

Trong thời gian thực hiện và triển khai đề tài, tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm cho bản thân. Đó là, phải  thường xuyên quan tâm, động viên, khuyên nhủ, chỉ bảo một cách ân cần, tận tình các em học sinh như chính con em của mình. Bản thân phải luôn trau dồi kiến thức, kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực giảng dạy,  cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Bản thân tôi cũng xin có một vài kiến nghị kính trình lên quí lãnh đạo sở. Quí lãnh đạo nên quan tâm, tạo điều kiện tốt hơn đối với giáo viên dạy học ở miền núi. Có những chế độ đãi ngộ cao hơn các vùng miền khác nhằm động viên tinh thần và vật chất giúp giáo viên yên tâm công tác, phục vụ và hoàn thành tốt sự nghiệp trồng người.

Xin chân thành cảm ơn./.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét