SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN VÀ KIẾN THỨC
THƠ- VĂN VỚI TÍCH HỢP TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT
LỚP 12 - THPT
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh
nảy sinh sáng kiến.
Khi dạy phần Lịch sử Việt
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Điều kiện: Phòng nghe nhìn, đồ dùng học tập, phương tiện dạy học…
- Thời gian áp dụng lần đầu: năm học 2014 - 2015
- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 12 THPT
3. Nội dung sáng kiến:
- Sáng kiến này, tôi tập
trung vào làm rõ hai vấn đề sau:
1. Sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học Lịch sử Việt
2. Sử dụng phương pháp
tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt
- Tính mới, sáng tạo của
sáng kiến: Tích hợp bổ sung kiến thức giúp học sinh hiểu rõ hơn về việc sử dụng
đồ dùng trực quan trong học tập bộ môn Lịch sử và hình thành tư tưởng đạo đức,
lòng biết ơn, sự kính trọng của các em đối với công lao của các thế hệ đi trước.
Hướng cho các em có suy nghĩ, hành động chuẩn mực, tích cực trong xu thế hội nhập
của đất nước và xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Đây chính là yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực toàn diện học sinh, biện
pháp để cho học sinh có hứng thú với bộ môn, tránh lối học thụ động, học vẹt, học
chép khi đi thi. Từ đó gắn kết nội dung kiến thức trong sách vở với thực tế, vận
dụng kiến thức giải quyết các tình huống thực tiễn. Đây chính là yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
4. Khẳng định, giá trị, kết quả đạt được:
- Qua
các giờ học sử dụng đồ dùng trực quan sinh động đã góp phần phát triển năng lực
nhận thức cho các em nhất là khả năng tư duy độc lập. Trước đây khi chưa chú ý
sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy bộ môn, học sinh thường chán học, học
chống đối, học vẹt. Còn hiện nay, hầu hết các em đều có thể nắm được những sự
kiện cơ bản, ít nhầm lẫn.
- Khi
sử dụng đúng thời điểm thì hiệu quả thu được sẽ cao, tuyệt đại đa số học sinh đều
hào hứng, tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia xây dựng
bài và có tinh thần đoàn kết trong học tập.
-
Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong bài dạy giúp các em thêm yêu quê
hương, đất nước, tự hào về truyền thống cha ông, đồng thời cũng giúp các em hiểu
và cư xử đúng mực, trân trọng những gì mình đang có và đang được hưởng thụ.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng
sáng kiến:
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1.
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Đất nước
và xã hội ta đang đổi mới. Giáo dục đang đổi mới. Vì thế, việc dạy học lịch sử
trong nhà trường cũng phải được đổi mới. Đổi mới để có kết quả tốt hơn, cao hơn, đáp ứng yêu cầu phát
triển xã hội.
Trong những năm gần đây, ngành giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước quan
tâm bởi nó đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển xã hội. Bộ môn Lịch sử ở trường phổ
thông hiện nay cũng đã được các nhà quản
lý giáo dục, các giáo viên và toàn xã hội quan tâm bởi nó tác động rất lớn đến
việc hình thành ý thức và tình cảm của học sinh, giáo dục truyền thống dân tộc,
cốt lõi là lòng yêu nước, sự giác ngộ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa… Việc này đòi
hỏi các cấp quản lý, các giáo viên giảng dạy lịch sử phải có cái nhìn toàn diện,
phải đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn sao cho phù hợp với lịch sử
truyền thống dân tộc, phù hợp với trình độ nhận thức của người học, đáp ứng với
công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước. Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy
học ở cấp THPT chưa thật đồng bộ và đôi khi chỉ là hình thức, nhất là đối với
việc sử dụng giáo án điện tử chỉ được sử dụng trong các giờ thao giảng, còn thực
hiện bài giảng chủ yếu vẫn chỉ là sử dụng linh hoạt bảng đen, phấn trắng, bản đồ,
tranh ảnh…
Chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12
giai đoạn 1919 -1945 có nhiều bài, nội dung liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Học tập những sự kiện về cuộc đời và hoạt động cách mạng
của Người, giúp học sinh không chỉ nắm vững, hiểu sâu lịch sử dân tộc mà còn có
tác dụng giáo dục tình cảm, đạo đức đúng đắn và phát triển toàn diện. Với thực
trạng đó, trong quá trình giảng dạy, sáng tạo, vận dụng những phương pháp mới,
có tính chất đặc thù, tôi đề xuất sáng kiến: “Sử dụng đồ dùng trực quan với
tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919 - 1945. Lớp 12 - THPT”.
2. Cơ sở
lí luận của vấn đề
Trong những năm gần đây, việc
giáo dục, tìm hiểu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được Đảng
và Nhà nước quan tâm, trở thành một trong những hoạt động quan trọng của toàn
xã hội. Tư liệu, hình ảnh về cuộc đời và sự nghiệp của Bác đã được truyền tải
trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, tác động mạnh mẽ tới các tầng lớp
nhân dân trong đó có học sinh.
Có rất nhiều hình thức cung cấp tư liệu, sự kiện lịch sử
cho học sinh và nâng cao hiệu quả bài học lịch sử trong đó có việc sử dụng đồ
đùng trực quan các tư liệu về lịch sử, nó giúp bồi dưỡng học sinh phương pháp học
tập, thực hành, phát huy tính năng động, tích cực nhận thức của các em trong việc
tìm tòi kiến thức, biết rút ra những kết luận cần thiết để vận dụng kiến thức
đã học, tiếp thu kiến thức mới, liên hệ với bài học thực tế cuộc sống, qua đó
hoàn thiện quy trình sư phạm thống nhất, góp phần phát triển nhân cách học sinh
một cách tích cực nhất.
Đối
với học sinh lớp 12 - lớp cuối cấp của bậc phổ thông, vốn kiến thức được tích
luỹ tương đối nhiều cũng như những đòi hỏi về độ sâu của kiến thức cũng tăng
lên. Chính vì vậy, hoạt động giảng dạy của giáo viên khi tiến hành bài dạy lịch
sử không chỉ là cung cấp tri thức cho học sinh, mà còn hướng dẫn cho học sinh
có ý thức và khả năng tự học. Tư liệu về Hồ Chí Minh có nhiều loại, trong đó có
hai loại chủ yếu là tư liệu thành văn và tư liệu hình ảnh. Cả hai loại tư liệu
này rất có tác dụng giáo dục học sinh khi học bộ môn lịch sử.
Đồ dùng trực quan có nhiều loại:
hiện vật, tranh ảnh, video, bản đồ, đồ thị, chân dung…sử dụng đồ dùng trực quan
về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử lớp 12 giai đoạn 1919 -1945, giúp
học sinh bổ sung, củng cố hoàn thiện những kiến thức lịch dân tộc, đồng thời mở
rộng vốn hiểu biết của mình về truyền thống văn hoá lịch sử dân tộc và những biến
đổi của thế giới xung quanh mình. Bên cạnh đó còn bồi dưỡng cho học sinh về
tình cảm đạo đức, lòng biết ơn, sự kính trọng đối với công lao của các thế hệ
đi trước, hướng cho các em có suy nghĩ, hành động chuẩn mực, tích cực.
Hơn nữa, khi chúng ta, tức là
những giáo viên giảng dạy Lịch sử giảng dạy đến Sự kiện, biến cố lịch sử nào,
nhân vật lịch sử nào thì dù muốn hay không, chúng ta cũng thường liên tưởng đến
những hình ảnh, câu thơ đã từng đề cập đến sự kiện đó, con người đó mà chúng ta
từng được đọc, được học. Trong thực tế, có không ít người vừa là nhà Văn, nhà
Thơ đồng thời là nhà Sử học mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một ví dụ điển
hình. Nhà Văn hóa, Nhà Giáo dục lớn và là người nghiên cứu Lịch Sử nổi tiếng
là tác giả của rất nhiều tác phẩm thơ, Văn nổi tiếng. “Tuyên ngôn độc lập”,
“Vi hành”, “Ngục trung nhật ký”… là những ví dụ tiêu biểu. Chính Người đã từng
dạy rằng:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường
gốc tích nước nhà Việt Nam
3. Thực trạng của vấn đề
Do đặc
điểm của việc học tập lịch sử - không trực tiếp quan sát các sự kiện, nên
phương pháp trực quan có ý nghĩa rất quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực
quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
Trong dạy
học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học
sinh, giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử.
Có nhiều cách phân loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, song về cơ bản
chúng ta có thể phân chia chúng thành 3 nhóm lớn thường được sử dụng trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
Nhóm thứ nhất: là đồ dùng trực quan hiện vật bao gồm những di tích lịch sử và cách mạng
như: thành nhà Hồ, hang Pác Bó, nhà số 5D phố Hàm Long…; những di vật khảo cổ
và các di vật thuộc các thời đại lịch sử như: công cụ đồ đá cũ núi Đọ, trống đồng
Đông Sơn, gỗ cọc Bạch Đằng… Thông qua việc tiếp xúc với những di tích hay dấu vết
còn lại của quá khứ, học sinh sẽ có những hình ảnh cụ thể, chân thực về quá khứ
và từ đó có tư duy lịch sử đúng đắn.
Nhóm thứ hai: là đồ dùng trực quan tạo hình bao gồm các loại phục chế, mô hình, sa bàn,
tranh ảnh lịch sử…Nó có khả năng khôi phục lại hình ảnh của những con người, đồ
vật, biến cố, sự kiện lịch sử một cách cụ thể, sinh động và khá sinh động.
Nhóm thứ
ba: là đồ dùng trực quan quy ước
bao gồm các loại bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên biểu…Loại đồ dùng này tạo
cho học sinh hình ảnh tượng trưng, khi phản ánh mặt chất lượng và số lượng của
quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển của hiện tượng kinh tế,
chính trị - xã hội của đời sống. Nó không chỉ là phương tiện để cụ thể hoá sự
kiện lịch sử mà còn là cơ sở để hình thành khái niệm cho học sinh…
Trong
phạm vi sáng kiến này tôi chỉ xin đưa ra một số kinh nghiệm trong việc sử dụng
đồ dùng trực quan, những câu thơ trong dạy học bộ môn Lịch sử. Trước đây việc sử
dụng loại đồ dùng này ở trường Trung học phổ thông còn chưa được chú ý nhiều,
việc giảng dạy còn mang tính đọc - chép, giáo viên nói, học sinh nghe, tiếp thu
một cách thụ động. Nhiều giáo viên còn dạy chay, nguyên do là thiếu đồ dùng dạy
học, không nắm bắt và sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, hoặc một số
giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, với học sinh, hoặc chưa thực sự coi
trọng việc sử dung đồ dùng trực quan trong giảng dạy... Kết quả là học sinh cảm
thấy nhàm chán, khô khan với môn học. Từ đó đã tạo ra một thế hệ học sinh “quay lưng” với môn Lịch sử, nhiều học
sinh học lịch sử chỉ mang tính đối phó, không có hứng thú trong quá trình học, thậm
chí không thể nhớ và hệ thống được kiến thức cơ bản của bộ môn. Do đó khi làm
bài kiểm tra đã có học sinh cho “Râu ông
nọ cắm cằm bà kia”, hoặc “tô hồng”
hay “bôi đen” các sự kiện lịch sử. Rồi
nhiều con số đáng báo động về số bài thi lịch sử điểm 0 ở các kỳ thi Đại học,
Cao đẳng… là một hồi chuông báo động cho toàn xã hội về thái độ học tập của học
sinh và phương pháp của giáo viên trong giảng dạy lịch sử hiện nay.
Tất cả
các thực trạng trên đều xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là học sinh không có hứng
thú học tập bộ môn, còn giáo viên thì chưa thể truyền được cho các em niềm say
mê tìm hiểu môn học… Vậy làm thế nào để thay đổi cách học của các em? Phải làm
gì để tạo hứng thú cho cho các em khi học môn Lịch sử. Đây là vấn đề mà các
giáo viên đang đứng trên bục giảng luôn quan tâm, tìm hướng giải quyết. Qua thực
tế giảng dạy, tôi nhận thấy “gây hứng thú
cho học sinh trong giờ học Lịch sử” là một trong những yêu cầu thiết yếu,
quan trọng hàng đầu trong dạy học lịch sử, phát huy tính tích cực, chủ động, khơi
dậy sự say mê, hứng thú của học sinh đối với lịch sử, có nghĩa là đáp ứng được
một trong những yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông – chương trình lớp 12, cùng với tiến trình dạy
học lịch sử dân tộc từ đầu thế kỉ XX đến nay, trong một số tiết Lịch sử để dạy
đúng về công lao và những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với lịch sử dân
tộc Việt Nam thật là quan trọng nhằm giáo dục học sinh cả về đức dục và trí dục.
Lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1919 -1945, các tư liệu thành văn về Bác đã được nhiều giáo viên sử dụng rất
hiệu quả. Tuy nhiên đối với các tư liệu hình ảnh thì chưa được coi trọng bởi
nguồn tư liệu nhiều, nếu phương pháp không khéo sẽ mất nhiều thời gian mà hiệu
quả bài học không cao.
Ngày nay, trong tình hình xã hội ngày
càng phát triển, học sinh THPT được tiếp cận với rất nhiều công nghệ hiện đại
trong đó có mạng Internet. Qua đó các em được tiếp xúc với nhiều trò chơi, hình
ảnh, thông tin tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm lứa tuổi học trò. Nếu
không có sự định hướng đúng đắn các em dễ sa ngã hoặc bị đối tượng xấu lợi dụng
sẽ dẫn đến có hành vi xấu đối với bản thân và cộng đồng. Ngược lại, mạng
Internet cũng chính là nơi cung cấp nguồn tư liệu khổng lồ và có hiệu quả nếu
giáo viên biết hướng dẫn học sinh khai thác và sử dụng nó. Chính điều này sẽ
giúp giáo viên đỡ vất vả hơn trong việc tìm kiếm tư liệu lịch sử, đặc biệt là
những tư liệu hình ảnh về Bác. Thông qua việc tìm kiếm, trình bày những tư liệu,
hình ảnh về Bác sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em, đồng
thời giúp các em hiểu sâu hơn về công lao và cuộc đời hoạt động của Người. Từ
đó các em biết ơn và kính trọng công lao của Bác đối với dân tộc, tự mình học hỏi
và làm tốt theo gương Bác.
Một thực tế nữa là, qua nhiều năm giảng
dạy, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất quý giá. Đó
là: khi áp dụng kiến thức thơ, văn vào việc giảng dạy Lịch sử rất gây hứng thú
cho học sinh trong việc tiếp thu bài. Điều này cũng đã được nhiều đồng nghiệp của
tôi thừa nhận và học hỏi sau khi họ dự giờ của cá nhân tôi. Từ kinh nghiệm này,
nhiều giáo viên đã bước đầu mạnh dạn đưa thơ, văn vào trong bài giảng nhằm minh
họa cho một số sự kiện Lịch sử trong bài dạy. Những tiết học như vậy trở nên
sinh động hẳn. Khi cô giáo đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ ra
rất thích thú, sau tiết học, nhiều em còn nhờ cô giáo đọc để chép vào sổ tay.
Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc
chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn,
lâu hơn.
Trong 9 năm qua, Thực hiện Chỉ thị số 06- CT/TW ngày 07 tháng 11 năm
2006 của Bộ Chính trị và lễ phát động tổ chức thực hiện cuộc vận động
“ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Ban Chấp
hành Trung ương tại lễ kỉ niệm 77 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhân dịp kỉ niệm 117 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Cuộc vận động
đã thu hút mọi tầng lớp nhân dân, mọi giới, mọi ngành tham gia. Là giáo viên giảng
dạy Lịch sử ở trường phổ thông, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giờ dạy Lịch sử
đỡ khô khan, có ý nghĩa giáo dục thiết thực đối với học sinh nhất là hưởng ứng
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm tòi
tài liệu và bắt tay vào nghiên cứu giảng dạy một số tiết Lịch sử Việt Nam hiện
đại ở lớp 12, giai đoạn 1919 -1945.
Xuất
phát từ thực tế học tập của học sinh, từ thực tế đổi mới dạy học, trong phạm vi
của sáng kiến này tôi không có tham vọng nhiều, tôi
đưa ra phương pháp “Sử dụng đồ dùng trực quan với tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945. Lớp 12 - THPT” nhằm trao đổi với đồng nghiệp đôi chút kinh nghiệm
được rút ra qua những năm giảng dạy của bản thân. Tôi nhận thấy đây là một vấn
đề hay, hấp dẫn, với nhiều hứa hẹn, nếu mỗi giáo viên biết sử dụng hợp lý sẽ
góp phần nâng cao chất lượng giờ học Lịch sử.
Thực
hiện sáng kiến này, với mong muốn:
- Nhằm
trao đổi với đồng nghiệp tư liệu hình ảnh về Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như
phương pháp “sử dụng đồ dùng trực quan với
tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919 -1945”.
- Góp phần phát triển phong trào đổi mới phương pháp dạy học ở trường
THPT hiện nay và cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Trung ương Đảng, Đảng bộ,
Công đoàn và Đoàn thanh niên nhà trường phát động.
- Đề tài này tôi tập trung vào làm rõ hai vấn đề sau:
1. Sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945.
2. Sử dụng phương pháp tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy
học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945.
Trong nội dung sáng kiến nhỏ này,
qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở trường phổ thông, tôi không có tham vọng
đi sâu vào tìm hiểu sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học mà chỉ đi sâu vào
tìm hiểu phương pháp sử dụng tư liệu, hình ảnh và phương pháp tích hợp tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh mà bản thân thấy muốn và cần được trao đổi với đồng nghiệp
thông qua việc dạy một số bài cụ thể của chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 12
giai đoạn 1919 -1945. Nhất là dạy học theo chuyên đề.
4. Các giải pháp, biện
pháp thực hiện.
4.1.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam gia đoạn 1919 -
1945.
4.1.1 Cơ sở khoa học.
Việc sử dụng phương tiện hiện đại
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đã trở nên rất phổ biến, hầu
hết giáo viên, nhất là giáo viên trẻ đều biết và đã sử dụng máy chiếu như một
phương tiện hữu hiệu nhất trong các giờ học như: thanh tra chuyên môn, các cuộc
thi giáo viên giỏi, các giờ thao giảng, kiểm tra toàn diện…
Trong đời sống xã hội, lịch sử có tác
dụng quan trọng không chỉ về trí tuệ, mà cả về tình cảm, tư tưởng. Tất cả các
môn học kể cả môn học tự nhiên và xã hội, ở những mức độ khác nhau đều góp phần
giáo dục tư tưởng tình cảm. Ví như môn Địa lý, dạy cho học sinh hiểu rõ đất nước
mình để tăng thêm lòng yêu Tổ quốc, yêu quê hương, nâng cao trách nhiệm bảo vệ
thiên nhiên. Môn Văn học giúp học sinh hiểu giá trị, yêu thích thơ văn, để càng
yêu quý hơn con người dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, môn Lịch sử có nhiều ưu thế
hơn trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ… Những con người, những
việc thực của quá khứ có sức thuyết phục, có sự rung cảm mạnh mẽ với các thế hệ
trẻ. Sử học phục vụ chính trị rất tốt. Học lịch sử quá khứ giúp cho học sinh nhận
thức đúng, rõ đường lối chính trị của Đảng. Song không vì thế mà giảng dạy lịch
sử như tuyên truyền đường lối, chính sách, như giải thích chính trị chung
chung, nông cạn. Ở đây cần phân biệt hệ tư tưởng xã hội và các môn khoa học có
tác dụng giáo dục tư tưởng. Đó là hai mặt của nhận thức xã hội, có điểm giống
và khác nhau. Hệ tư tưởng phải dựa vào lý tưởng giai cấp, xã hội, đối với chúng
ta đó là lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, là con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vạch ra.
Theo lý luận dạy học thì phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo
biểu tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại
hoá lịch sử của học sinh. Đồ dùng trực quan giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những
hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc
trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan.
4.1.2.
Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ
dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và
ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào thì học sinh
cũng có thể nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ánh, minh
hoạ như thế nào. Từ đó các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói cụ thể
về bức tranh xã hội đã qua.
Có nhiều cách khác nhau về phân loại đồ dùng trực quan, song về cơ bản
chúng ta có thể chia thành 3 nhóm lớn thường được sử dụng trong dạy học lịch sử
ở trường phổ thông cụ thể là:
- Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật bao gồm những di tích lịch sử và cách
mạng như: hang Pác Bó, Lán Khuổi Nậm, nhà Ông bà nội, Ông bà ngoại của Bác…
- Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình: bao gồm các loại phục chế, sa bàn, tranh
ảnh lịch sử như: ảnh Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Tua năm 1920, hình vẽ người đi săn hươu nai trên vách hang…
- Nhóm đồ dùng trực quan quy ước bao gồm các loại: bản đồ lịch sử, sơ đồ,
niên biểu…
Ví như, dạy Chủ đề 8 tài lỉệu chuẩn kiến
thức, kĩ năng: Việt nam từ năm 1919 -1930 - Tiết 2, mục 2 ( tức Bài 12: Phong
trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 -1925 - Tiết 2 – sách giáo
khoa cũ), khi dạy về Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc là trọng tâm của tiết học,
giáo viên có thể sử dụng máy chiếu để giảng dạy, cùng với việc sử dụng bản đồ “Hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh từ 1911 - 1941”, kết hợp với sách giáo khoa viết rất rõ và chi tiết
các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc nên cho học sinh về tự đọc và học theo sách
giáo khoa, còn trong tiết học giáo viên kết hợp đồ dung trực quan để khắc sâu
các sự kiện cơ bản về Nguyễn Ái Quốc. Trước tiên, giáo viên giới thiệu vài nét
về gia đình kết hợp với sử dụng hình ảnh gia đình của Bác: Chủ tịch Hồ Chí Minh
sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Ngệ An
Thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Nguyễn
Sinh Sắc, sinh 1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng
ông sớm có ý chí tự lập, thông minh, ham học. Năm 1901 Nguyễn Sinh Sắc thi Hội
và đậu phó bảng. Tuy đỗ cao nhưng ông vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét
thói xu nịnh, cam phận của các quan lại trong triều đình Huế. Ông chỉ làm quan
trong một thời gian ngắn và sau đó sống bằng nghề dạy học, bắt mạch bốc thuốc
chữa bệnh cho nhân dân, ông có tư tưởng yêu nước tiến bộ, nhân cách cao thượng
của ông đã ảnh hưởng rát sâu sắc đến những người con. Ông qua đời tại thị xã
Cao Lãnh (Đồng Tháp) vào năm 1929, thọ 67 tuổi.
Thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng
Thị Loan sinh năm 1868 trong một gia đình nho học. Bà là một phụ nữ thông minh,
cần cù chịu khó, thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái. Bằng nghề làm ruộng
và dệt vải bà đã hết lòng chăm lo cho chồng và các con. Cuộc đời của bà tuy ngắn
ngủi nhưng đã để lại hình ảnh về một người phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa
và có ảnh hưởng rất lớn tới tu cách của các con mình. Bà qua đời tại Huế năm
1901, lúc 33 tuổi.
Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trần Thị
Thanh, sinh1884, chị đã tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực
dân Pháp và triều đình phong kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê
hương năm 1954, thọ 70 tuổi.
Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn
Sinh Khiêm, sinh năm 1888, từ tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều
nơi truyền thụ kiến thức, mở mang văn hoá. Do tham gia các hoạt động yêu nước
chống thực dân và phong kiến nên Nguyễn Sinh Khiêm đã từng bị tù đày nhiều năm.
Nguyễn Sinh Khiêm qua đời năm 1950, thọ 62 tuổi.
(Chủ tịch Hồ Chí Minh
1890 -1969)
Qua các bức tranh trên, giáo viên có thể hỏi “Qua xem các tranh ảnh trên, em nào có nhận xét gì?” sau khi học
sinh trả lời, giáo viên có thể nhắc lại về tiểu sử của Nguyễn Ái Quốc, và chốt
lại bằng 2 câu thơ:
“Tháp
Mười đẹp nhất Hoa Sen
Việt
từ đó tạo biểu tượng cho các em nhớ lâu các sự
kiện, các nhân vật lịch sử.
Tiếp đến, giáo viên giới thiệu bản đồ về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và phát vấn học sinh: “Em hãy nêu hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 -1925” học sinh sẽ tóm lược những sự kiện cơ bản trong sách giáo khoa, sau đó giáo viên nhận xét, chỉ bản đồ bằng các hiệu ứng nhấp nháy trên bản đồ phân tích và nhắc các em về nhà tự hoàn thiện niên biểu: thời gian, sự kiện tiêu biểu về quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
Qua theo dõi 2 bức tranh, giáo viên kết hợp đọc 4 câu thơ
trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên:
“Đất
nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi.
Cho
tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác!
Khi bờ
bãi dần lui, làng xóm khuất,
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre...”
Qua
bức tranh trên, giáo viên có thể trích lời phát biểu của Bác tại Đại hội: “Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối
tăm, vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”. Từ đó, giáo dục các em biết
trân trọng lịch sử, thể hiện niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần đấu
tranh vì độc lập dân tộc và lòng căm thù đối với giặc ngoại xâm.
Hay ở Bài 16 – “Phong trào giải
phóng dân tộc và Tổng khới nghĩa tháng Tám
(1 939-1945”). Nước Việt
a) Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí
Minh và tình cảm của Người khi trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu
nước, có thể khai thác sử dụng:
“Ôi sáng xuân nay, xuân
bốn mốt
Sáng rừng Việt Bắc trắng
hoa mơ
Người về. Im lặng. Con
chim hót
Thánh thót bờ lau, vui
ngẩn ngơ”
(Tố Hữu-SĐD)
b) Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc
hoạ hình ảnh của Mặt Trận Việt Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thu nhỏ” đầy tính
ưu việt, có thể sử dụng thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“… Có mười chính sách bày ra
Một là ích nước, hai là lợi dân
Bao nhiên thuế ruộng, thuế thân
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương
Họp hành, đi lại có quyền tự do
Nông dân có ruộng, có bò,
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn.
Công nhân làm lụng gian nan
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ.
Gặp khi tai nạn bất ngờ
Thuốc thang Chính phủ bây giờ giúp cho.
Thương nhân buôn bán nhỏ to
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền
Nào là những kẻ chức viên
Cả lương đãi ngộ cho yên tấm lòng
Binh lính giữ nước có công
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu
Thanh niên có trường học nhiều
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho
Đàn bà cũng được tự do
Bất phân nam nữ đều cho bình quyền
Người tàn tật, kẻ lão niên
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho
Trẻ em bố mẹ khỏi lo
Dạy nuôi, chính phủ giúp cho đủ đầy”
(Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta – Tập 3, Tr 152, 153)
Như vậy, có thể nói đồ dùng trực quan cũng như các câu thơ - văn có vai
trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến
thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta
là hình ảnh mà chúng ta thu nhận được bằng trực quan và các áng thơ - văn là một
thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông
qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ
cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để
làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà. Đồ dùng trực quan góp phần to lớn nhằm nâng
cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại. Sau khi được xem
các hình ảnh và các câu thơ khắc họa về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, học
sinh sẽ có những tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến lãnh tụ, những anh hùng, chiến
sĩ cách mạng, lòng quý trọng lao động và nhân dân lao động, từ đó giúp các em
có cái nhìn đúng đắn về bè lũ xâm lược và chiến tranh.
4.2. Sử dụng phương pháp tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt
4.2.1. Lí luận
Chủ
tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc Việt
Trong
9 năm qua, Trung ương Đảng, Chính Phủ đã
tổ chức phát động cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã được toàn dân tham gia
hưởng ứng. Tư liệu, hình ảnh về cuộc đời và hoạt động của Người được đăng tải
trên nhiều phương tiện, tác động mạnh mẽ tới tất cả các tầng lớp nhân dân trong
đó có học sinh. Giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh cần tập
trung vào các điểm chủ yếu sau:
- Tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Tấm gương của ý chí và nghị lực tinh
thần, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích.
- Tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức
mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.
- Tấm gương của một con người nhân ái,
vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.
- Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi
thường.
Tuy nhiên, tùy theo từng lứa tuổi học
sinh, các lớp, các cấp, bậc học mà giáo viên cung cấp cho hoc sinh ở các mức độ
khác nhau, thông qua các môn học và các hoạt động giáo dục khác nhau. Đối với
môn Lịch sử lóp 12, kiến thức có nhiều,
tuy nhiên với thời gian 45 phút - một tiết dạy, đòi hỏi giáo viên phải biết lựa
chọn những kiến thức cơ bản, những sự kiện tiêu biểu giúp học dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu các sự kiện
lịch sử.
4.2.2. Phương
pháp sử dụng
Trong tư tưởng, cũng như trong hoạt động
thực tiễn, Hồ Chí Minh coi nội dung giáo dục không chỉ có kiến thức văn hóa mà
quan trọng hàng đầu là giáo dục đạo đức, nhân cách, tình cảm, lối sống, nhằm tạo
ra những con người vừa có tài, vừa có đức, những con người phát triển toàn diện
đức, trí, thể, mĩ. Hội tụ đầy đủ các phẩm chất nhân, trí, lễ, nghĩa, tín, dũng,
liêm, chính… Đây là tư tưởng cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về giáo dục. Người
nói: “Trong giáo dục không những có trí
thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không
có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi
trong chùa, không giúp ích gì được ai
”.{ 7, 498}. Hồ Chí Minh luôn khẳng định
phương châm giáo dục là “Lý luận đi đôi với
thực hành, học đi đôi với hành, học để hành ngày càng tốt hơn”. Trong bài thơ
“Dạ bán” (Nửa đêm), Người viết:
“Thiện, ác nguyên lai vô định tính
Đa do giáo dục đích nguyên nhân”.
Nghĩa là: Hiền dữ phải đâu là
tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
(Nam Trân dịch)
Trong dạy học lịch sử, việc học đi đôi
với hành được thể hiện trước hết là thực hành bộ môn để tạo cho học sinh có biểu
tượng lịch sử chân xác, giàu hình ảnh. Công việc này thể hiện ở việc làm các đồ
dùng trực quan, tập viết và trình bày các bài tường thuật, miêu tả về một sự kiện
lịch sử, đọc tài liệu, giải thích, phân tích nội dung một hiện tượng, minh hoạ
bằng tranh vẽ nội dung một sự kiện, chân dung một nhân vật lịch sử…Hành trong bộ
môn lịch sử ở trường phổ thông còn là vận dụng kiến thức đã học để tiếp thu kiến
thức mới và hoàn thành những việc công ích xã hội như: tham gia sưu tầm, biên
soạn lịch sử địa phương, xây dựng nhà truyền thống, thông tin tuyên truyền lịch
sử, bảo vệ tu sửa các di tích lịch sử…
Những tư tưởng vừa nêu được hiện ra
trên những nụ cười thân mật, qua những cử chỉ âu yếm, những câu dặn dò, khuyên
bảo ân cần trong các bức ảnh Bác Hồ với các cháu thiếu niên nhi đồng, với học
sinh:
“Ai
yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh?”
Một trong những tư tưởng lớn của Hồ
Chí Minh về giáo dục là coi tự học và học suốt đời là tố chất không thể thiếu
trong tư duy và hành động của con người hiện đại. Người khẳng định “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì
vậy, trong cuộc đời hoạt động của mình Bác luôn quan tâm, tự tìm hiểu, nghiên cứu
lịch sử văn hoá dân tộc. Bên cạnh đó, Người còn khẳng định: Tương lai dân tộc, tiền đồ của Tổ quốc và sự thành công của
cách mạng phần lớn phụ thuộc vào việc giáo dục và đào tạo thanh niên. Người chỉ
rõ "Thanh niên là người chủ tương
lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các
thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại
phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái
tương lai đó".{ 6, 185}.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, để các thế hệ thanh niên có thể trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp xây dựng đất nước thì nhiệm vụ giáo dục và đào tạo thanh niên lại càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa".
Con người xã hội chủ nghĩa phải là những
con người được phát triển toàn diện. Đó là những con người có thế giới quan
khoa học, có sức khoẻ, có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng, có tri thức
và đặc biệt là phải có đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, một lòng
một dạ phục vụ nhân dân phục vụ cách mạng. Người nói: “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” .{ 6, 262}.
Trong dạy học lịch sử lớp 12 giai đoạn
1919 -1945, qua chủ đề 8 và 9
(bài
học: 12, 13, 15, 16 sách giáo khoa cũ), giáo viên có thể kết hợp tích hợp tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vào trong tiết dạy của mình.
Ví như khi dạy Chủ đề 8: Việt Nam từ năm 1919 -1930 ( bài 12, 13 sách
giáo khoa cũ) sau khi dạy bài 12, mục: Hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc, giáo viên nhấn mạnh những hoạt động của Người trước
và sau khi tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc (trước và sau năm
1920) và sự kiện Người đọc Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin (tháng 7/1920), sự kiện tháng 12/1920 Người tham dự Đại
hội Tua, bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế cộng sản và thành lập Đảng cộng
sản Pháp. Cùng với đó, giáo viên kết hợp đọc mấy câu thơ của Chế Lan Viên:
“Luận cương đến! Bác Hồ và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin…”
Qua
những sự kiện trên, giáo viên nhấn mạnh đây là sự kiện đánh dấu quan trọng
trong cuộc đời của Người, bước ngoặt tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn và
phát triển cho dân tộc Việt
Hoặc khi dạy bài 13 - tiết 2, mục: Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời, với sự kiện Hội nghị thành lập Đảng: Ngày 06/01/1930 Người
chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung
Quốc) thống nhất thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như điều
kiện thực tế của Việt Nam và quốc tế, đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường
cách mạng vô sản…qua đây giáo viên nhấn mạnh và giáo dục cho học sinh ý thức
trách nhiệm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân của Bác, từ đó các em có cái nhìn
đúng đắn về lịch sử dân tộc và ý thức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng
mà cha ông ta đã giành được.
Khi dạy bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám (1939
-1945). Nước Việt
“Lán Khuổi Nậm – nơi họp Hội nghị lần thứ 8
(5/1941)”
Kết
hợp giáo viên đọc 2 câu thơ trong bài thơ “Người
đi tìm hình của nước”:
Ba mươi năm ấy
chân không mỏi
Và đến bây giờ mới
tới nơi.
Giáo viên lấy dẫn chứng phân tích: sau
30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp lãnh đạo
cách mạng, sau một thời gian chuẩn bị Người đã chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban
Chấp hành Trung ương tại Pác Bó (Hà Quảng - Cao Bằng). Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách
mạng là giải phóng dân tộc… và quyết định thành lập Mặt trận Việt
Khi dạy về cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng
tháng Tám 1945: giáo viên phân tích diễn biến của cuộc Tổng Khởi nghĩa, sự ra đời
của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nội dung của Tuyên ngôn độc lập và minh hoạ
bằng các hình ảnh:
“Toàn cảnh Quảng trường Ba Đình Hà Nội, ngày
2/9/1945”
Qua các bức tranh trên,
giáo viên nhấn mạnh cho học sinh thấy được tinh thần
và quyết tâm đấu tranh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì sự nghiệp giải phóng đất. Năm 1945 -
năm thử thách lớn của vận mệnh dân tộc, nhưng Bác đã khẳng định : “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới. Dù hy sinh
tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được
độc lập”.{ 5, 256}.Thắng lợi của cách mạng
tháng Tám, đã đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng Vỉệt Nam, mở ra kỉ nguyên mới
trong lịch sử dân tộc: kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng
giai cấp. Mới 15 tuổi Đảng đã lãnh đạo
cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc. Vì vậy, ngày 2/9/1945 trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ
vang của dân tộc Việt
5. Kết quả đạt được
- Thực tiễn giảng dạy những năm qua tôi đã thường xuyên sử
dụng đồ dùng trực quan và làm thêm tư liệu để giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường
phổ thông.
- Sau nhiều năm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và
tám năm thực hiện cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đặc biệt là các buổi sinh hoạt
chuyên đề, giáo dục ngoài giờ lên lớp, CLB bộ môn, tổ chức
ngoại khóa, các cuộc thi kiến thức… dưới cờ của Đoàn
thanh niên, Tổ chuyên môn, tôi thấy chất lượng dạy và học của giáo viên ngày
càng được nâng cao rõ rệt.
5.1. Đối với giáo viên:
- Hầu hết giáo viên lịch sử của nhà trường đều tích cực đổi
mới phương pháp dạy học lịch sử.
- Biết cách kết hợp các phương pháp giảng dạy lịch sử, đặc
biệt phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học.
-
Tích cực hưởng ứng cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, lồng ghép tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học bộ môn.
5.2. Đối với học sinh:
- Chất
lượng môn học lịch sử ngày một cao, học sinh yêu thích môn lịch sử, thích các trò chơi lịch sử và chuyên đề dưới cờ.
- Qua
các giờ học sử dụng đồ dùng trực quan sinh động đã góp phần phát triển năng lực
nhận thức cho các em nhất là khả năng tư duy độc lập. Trước đây khi chưa chú ý
sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy bộ môn, học sinh thường chán học, học
chống đối, học vẹt. Còn hiện nay, hầu hết các em đều có thể nắm được những sự
kiện cơ bản, ít nhầm lẫn.
- Khi
sử dụng đúng thời điểm thì hiệu quả thu được sẽ cao, tuyệt đại đa số học sinh đều
hào hứng, tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia xây dựng
bài và có tinh thần đoàn kết trong học tập.
- Qua
các bài học, các trò chơi lịch sử, các chuyên đề dưới cờ giúp các em thêm yêu
quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống cha ông, đồng thời cũng giúp các em
hiểu và cư xử đúng mực, trân trọng những gì mình đang có và đang được hưởng thụ.
6. Điều kiện để sáng
kiến được nhân rộng.
Đồ dùng trực quan, đặc
biệt là bản đồ, tranh ảnh là phương tiện không thể thiếu trong hoạt động dạy, học.
Bằng những bản đồ, hình ảnh… kết hợp với việc giáo viên sử dụng phương pháp tốt
sẽ giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức phát huy được vai trò chủ thể
của học sinh trong quá trình học tập.
Những đò dùng trực quan
khi sử dụng trong bài giảng cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với nội dung
bài dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đặc biệt là những bản đồ,
tranh ảnh tạo ấn tượng, giúp học sinh nhớ kĩ, khắc sâu kiến thức đồng thời tái
hiện lại kiến thức đã học.
Về phương pháp sử dụng:
Phải sử dụng tinh tế, khéo léo vừa đảm bảo tính trực quan vừa đảm bảo tính khoa
học. Điều đáng lưu ý là bản đồ, tranh ảnh dù sinh động đến đâu cũng không thể
giúp học sinh học tốt nếu thiếu sự chỉ bảo tận tình của giáo viên bộ môn. Vậy với
cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn người giáo viên phải luôn tác động vào ý
thức học tập của các em, phải khơi dậy trong các em sự tìm tòi, ham hiểu biết sẵn
sàng khám phá khoa học.
Với việc “sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch
sử” mỗi thầy cô giáo có thể sử dụng thành công nếu:
+ Mỗi thầy cô giáo lao động thực sự, có tâm huyết,
lòng say mê nghiên cứu lịch sử, đầu tư thời gian cho soạn giảng.
+
Phải nắm vững nội dung và yêu cầu của tiết dạy
+
Phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học bộ môn trong từng bài, từng
mục.
Nếu
mỗi giáo viên lịch sử đều làm như vậy, tôi tin tưởng rằng chất lượng dạy và học
bộ môn lịch sử ở trường phổ thông sẽ được nâng lên rõ rệt.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Lịch
sử nước ta vô cùng phong phú và đa dạng và luôn chứa đựng nhiều ẩn số. Ngày nay
khoa học nói chung và khoa học lịch sử nói riêng phát triển như vũ bão. Chương
trình và sách giáo khoa phổ thông là nguồn tài liệu tham khảo, dù có phong phú
đến mấy nhưng cũng khó thể hiện được tính cụ thể, sinh động của lịch sử. Nhất
là trong thời gian có hạn - 45 phút, giáo viên khó có thể truyền tải hết kiến
thức lịch sử, đòi hỏi mỗi giáo viên phải biết lựa chọn những phương pháp phù hợp
cho từng bài, từng tiết, từng đối tượng học sinh, để giờ học lịch sử đỡ khô
khan, cứng nhắc, làm sao cho học sinh tiếp thu được nội dung lịch sử đạt hiệu
quả cao.
2. Khuyến nghị
Qua
thực tiễn giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông nhiều năm, nhất là trong
điều kiện tích cực thực hiện cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Là một giáo viên tôi đã rút
ra một số kinh nghiệm và khuyến nghị như sau:
Thứ nhất: Đối với sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học lịch sử, mỗi giáo viên cần chú ý các nguyên tắc sau:
Một là, phải căn cứ vào nội dung giáo dục, giáo dưỡng của bài để lựa
chọn đồ dùng trực quan cho phù hợp với bài dạy.
Hai là, tuỳ từng lớp, từng đối tượng và từng bài có thể sử dụng đồ
dùng trực quan.
Ba là, phải có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại
đồ dùng trực quan, phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan của học
sinh.
Bốn là, Phát huy được tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ
dùng trực quan.
Năm là, phải kết hợp lời nói với việc trình bày các đồ dùng trực
quan, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi xây dựng và sử dụng
đồ dùng trực quan.
Thứ hai: Đối với việc thực hiện tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh trong dạy học lịch sử,
mỗi
giáo viên cũng phải đảm bảo thực hiện theo một số nguyên tắc:
Một là, Nội dung giáo dục về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy
học Lịch sử ở trường phổ thông là cần thiết và bắt buộc nhất là đối với học
sinh lớp 12.
Hai là, Mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục ở các cấp học, bậc
học phải phù hợp với mục tiêu của các cấp, bậc tương ứng, góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục phổ thông nói chung.
Ba là, giáo dục phải phù hợp với đặc điểm, tâm sinh lí lứa tuổi học
sinh và theo môn học, theo các hoạt động giáo dục chính khoá, ngoại khoá, phù hợp
với đặc trưng của môn học.
Bốn là, tuỳ theo nội dung, đặc điểm và khả năng thực hiện việc tích
hợp giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh của môn học để lựa chọn mức độ tích
hợp thích hợp và có thể lồng ghép những tranh ảnh, phim, kể chuyện, nếu thấy phù hợp.
Ngoài ra tôi cũng xin đưa ra một số khuyến nghị
khác nữa là:
- Lịch sử là linh hồn của dân tộc, của Tổ quốc,
trong nhà trường bộ môn Lịch sử cũng có ý nghĩa như vậy. Học Lịch sử sẽ giúp học
sinh, sinh viên biết "ứng xử với quá khứ thế nào và vận dụng quá khứ đó đối
với cuộc sống hôm nay và sau này. Lịch sử là cuộc đối thoại liên tục đối với
quá khứ và hiện tại" (GS.Phan Huy Lê). Vì vậy, để trả môn Lịch sử về đúng
vai trò và vị trí của nó trong nhà trường. Tôi đề nghị Bộ Chính trị BCHTW Đảng
cần có Chỉ thị hoặc Nghị quyết Chuyên đề về việc tăng cường sự lãnh đạo, quản
lý đối với việc đổi mới dạy và học Lịch sử trong nhà trường.
- Bác Hồ kính yêu đã từng nói "Dân ta phải
biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
- Bộ GD&ĐT cần phải làm thay đổi nhận thức của
giáo viên, phụ huynh học sinh và học sinh về vị trí, tầm quan trọng và sự cần
thiết của môn Lịch sử trong hệ thống các môn học, không còn coi môn Lịch sử là
môn phụ nữa; Bộ GD&ĐT phải dành mọi ưu tiên đầu tư cho việc đổi mới căn bản,
toàn diện việc dạy và học môn Lịch sử trong nhà trường. Từ việc đầu tư xây dựng
chương trình, đổi mới phương pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá đến việc đào tạo,
bồi dưỡng sàng lọc đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Lịch sử và tăng cường đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy và học Lịch sử. Có quy định môn Lịch sử
là môn học bắt buộc đối với tất cả các ngành học từ trung cấp chuyên nghiệp trở
lên. Cùng với môn Toán và môn Ngữ văn, môn Lịch sử phải được tăng thêm số tiết
và hệ số điểm ở các kỳ thi; cho giáo viên lịch sử được ưu tiên đi tham quan học
tập và bồi dưỡng thường xuyên ở trong và ngoài nước.
- Chúng tôi đề nghị Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam, Hội Giáo dục Lịch sử Việt Nam thuộc hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cần phải
có những động thái tích cực hơn nữa trong việc phối hợp cùng ngành GD&ĐT thực
hiện thành công việc đổi mới căn bản và toàn diện việc dạy và học Lịch sử. Đặc
biệt là việc soạn thảo chương trình SGK lịch sử mới sau năm 2015 và công tác bồi
dưỡng giáo viên lịch sử…
Thực tiễn công tác giảng dạy ở trường
phổ thông, với những kinh nghiệm còn ít ỏi, tôi cũng mong muốn góp một phần nhỏ
vào sự phát triển của bộ môn, vào sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Tuy
nhiên, trong quá trình giảng dạy và nội dung đề tài còn nhiều hạn chế nhất định.
Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của bạn bè và đồng nghiệp để công tác giảng
dạy của tôi đạt hiệu quả hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
THÔNG TIN CHUNG VỀ
SÁNG KIẾN……………………………………..
TÓM TẮT SÁNG KIẾN………………………………………………………..
MÔ TẢ SÁNG KIẾN……………………………………………………………
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
2. Cơ sở lí luận của vấn đề
3. Thực trạng
của vấn đề
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
4.1 Sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy học lịch sử Việt Nam gia đoạn 1919 - 1945.
4.1.1 Cơ sở khoa học.
4.1.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng
trực quan
4.2 Sử dụng phương pháp tích
hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919
- 1945
4.2.1 Lí luận
4.2.2 Phương pháp sử dụng
5.
Kết quả đạt được
6.
Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
KẾT
LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
0 Nhận xét