SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN LỊCH SỬ: SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN VÀ KIẾN THỨC THƠ- VĂN VỚI TÍCH HỢP TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1945. LỚP 12 - THPT

  


SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN VÀ KIẾN THỨC

THƠ- VĂN VỚI TÍCH HỢP TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC

HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1945.

 LỚP 12 - THPT

TÓM TẮT SÁNG KIẾN

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.

Khi dạy phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 môn Lịch sử lớp 12. ngoài việc truyền thụ kiến thức có trong sách giáo khoa bằng lời nói hay sử dụng các phương tiện dạy học, tôi thấy có một số nội dung cần làm rõ, gây hứng thú học tập, sự yêu thích của học sinh đối với bộ môn Lịch sử. Đồng thời giúp các em có sự nhìn nhận đúng đắn về lịch sử nước nhà, cũng như muốn giáo dục tư tưởng, đạo đức  cho học sinh làm hành trang trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy tôi nảy sinh ra sáng kiến “Sử dụng đồ dùng trực quan với tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945”, nhằm giúp học sinh ghi nhớ những sự kiện lịch sử, những nhân vật lịch sử dễ hơn và lâu hơn, đồng thời giúp các em sớm hình thành tư tưởng đạo đức nhân cách con người cách mạng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.

- Điều kiện: Phòng nghe nhìn, đồ dùng học tập, phương tiện dạy học…

- Thời gian áp dụng lần đầu: năm học 2014 - 2015

- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 12 THPT

3. Nội dung sáng kiến:

- Sáng kiến này, tôi tập trung vào làm rõ hai vấn đề sau:

1. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945.

2. Sử dụng phương pháp tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945.

- Tính mới, sáng tạo của sáng kiến: Tích hợp bổ sung kiến thức giúp học sinh hiểu rõ hơn về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong học tập bộ môn Lịch sử và hình thành tư tưởng đạo đức, lòng biết ơn, sự kính trọng của các em đối với công lao của các thế hệ đi trước. Hướng cho các em có suy nghĩ, hành động chuẩn mực, tích cực trong xu thế hội nhập của đất nước và xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Đây chính là yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực toàn diện học sinh, biện pháp để cho học sinh có hứng thú với bộ môn, tránh lối học thụ động, học vẹt, học chép khi đi thi. Từ đó gắn kết nội dung kiến thức trong sách vở với thực tế, vận dụng kiến thức giải quyết các tình huống thực tiễn. Đây chính là yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.

4. Khẳng định, giá trị, kết quả đạt được:

- Qua các giờ học sử dụng đồ dùng trực quan sinh động đã góp phần phát triển năng lực nhận thức cho các em nhất là khả năng tư duy độc lập. Trước đây khi chưa chú ý sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy bộ môn, học sinh thường chán học, học chống đối, học vẹt. Còn hiện nay, hầu hết các em đều có thể nắm được những sự kiện cơ bản, ít nhầm lẫn.

- Khi sử dụng đúng thời điểm thì hiệu quả thu được sẽ cao, tuyệt đại đa số học sinh đều hào hứng, tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia xây dựng bài và có tinh thần đoàn kết trong học tập.

- Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong bài dạy giúp các em thêm yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống cha ông, đồng thời cũng giúp các em hiểu và cư xử đúng mực, trân trọng những gì mình đang có và đang được hưởng thụ.

5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến:

 

 

MÔ TẢ SÁNG KIẾN

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

         Đất nước và xã hội ta đang đổi mới. Giáo dục đang đổi mới. Vì thế, việc dạy học lịch sử trong nhà trường cũng phải được đổi mới. Đổi mới để có kết quả tốt hơn, cao hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.

Trong những năm gần đây, ngành giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm bởi nó đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát  triển xã hội. Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông hiện  nay cũng đã được các nhà quản lý giáo dục, các giáo viên và toàn xã hội quan tâm bởi nó tác động rất lớn đến việc hình thành ý thức và tình cảm của học sinh, giáo dục truyền thống dân tộc, cốt lõi là lòng yêu nước, sự giác ngộ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa… Việc này đòi hỏi các cấp quản lý, các giáo viên giảng dạy lịch sử phải có cái nhìn toàn diện, phải đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn sao cho phù hợp với lịch sử truyền thống dân tộc, phù hợp với trình độ nhận thức của người học, đáp ứng với công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước. Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học ở cấp THPT chưa thật đồng bộ và đôi khi chỉ là hình thức, nhất là đối với việc sử dụng giáo án điện tử chỉ được sử dụng trong các giờ thao giảng, còn thực hiện bài giảng chủ yếu vẫn chỉ là sử dụng linh hoạt bảng đen, phấn trắng, bản đồ, tranh ảnh…

          Chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn 1919 -1945 có nhiều bài, nội dung liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Học tập những sự kiện về cuộc đời và hoạt động cách mạng của Người, giúp học sinh không chỉ nắm vững, hiểu sâu lịch sử dân tộc mà còn có tác dụng giáo dục tình cảm, đạo đức đúng đắn và phát triển toàn diện. Với thực trạng đó, trong quá trình giảng dạy, sáng tạo, vận dụng những phương pháp mới, có tính chất đặc thù, tôi đề xuất sáng kiến: “Sử dụng đồ dùng trực quan với tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945. Lớp 12 - THPT”.

2. Cơ sở lí luận của vấn đề

Trong những năm gần đây, việc giáo dục, tìm hiểu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, trở thành một trong những hoạt động quan trọng của toàn xã hội. Tư liệu, hình ảnh về cuộc đời và sự nghiệp của Bác đã được truyền tải trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, tác động mạnh mẽ tới các tầng lớp nhân dân trong đó có học sinh.

          Có rất nhiều hình thức cung cấp tư liệu, sự kiện lịch sử cho học sinh và nâng cao hiệu quả bài học lịch sử trong đó có việc sử dụng đồ đùng trực quan các tư liệu về lịch sử, nó giúp bồi dưỡng học sinh phương pháp học tập, thực hành, phát huy tính năng động, tích cực nhận thức của các em trong việc tìm tòi kiến thức, biết rút ra những kết luận cần thiết để vận dụng kiến thức đã học, tiếp thu kiến thức mới, liên hệ với bài học thực tế cuộc sống, qua đó hoàn thiện quy trình sư phạm thống nhất, góp phần phát triển nhân cách học sinh một cách tích cực nhất.

          Đối với học sinh lớp 12 - lớp cuối cấp của bậc phổ thông, vốn kiến thức được tích luỹ tương đối nhiều cũng như những đòi hỏi về độ sâu của kiến thức cũng tăng lên. Chính vì vậy, hoạt động giảng dạy của giáo viên khi tiến hành bài dạy lịch sử không chỉ là cung cấp tri thức cho học sinh, mà còn hướng dẫn cho học sinh có ý thức và khả năng tự học. Tư liệu về Hồ Chí Minh có nhiều loại, trong đó có hai loại chủ yếu là tư liệu thành văn và tư liệu hình ảnh. Cả hai loại tư liệu này rất có tác dụng giáo dục học sinh khi học bộ môn lịch sử.

                   Đồ dùng trực quan có nhiều loại: hiện vật, tranh ảnh, video, bản đồ, đồ thị, chân dung…sử dụng đồ dùng trực quan về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử lớp 12 giai đoạn 1919 -1945, giúp học sinh bổ sung, củng cố hoàn thiện những kiến thức lịch dân tộc, đồng thời mở rộng vốn hiểu biết của mình về truyền thống văn hoá lịch sử dân tộc và những biến đổi của thế giới xung quanh mình. Bên cạnh đó còn bồi dưỡng cho học sinh về tình cảm đạo đức, lòng biết ơn, sự kính trọng đối với công lao của các thế hệ đi trước, hướng cho các em có suy nghĩ, hành động chuẩn mực, tích cực.

     Hơn nữa, khi chúng ta, tức là những giáo viên giảng dạy Lịch sử giảng dạy đến Sự kiện, biến cố lịch sử nào, nhân vật lịch sử nào thì dù muốn hay không, chúng ta cũng thường liên tưởng đến những hình ảnh, câu thơ đã từng đề cập đến sự kiện đó, con người đó mà chúng ta từng được đọc, được học. Trong thực tế, có không ít người vừa là nhà Văn, nhà Thơ đồng thời là nhà Sử học mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một ví dụ điển hình. Nhà Văn hóa, Nhà Giáo dục lớn và là người nghiên cứu Lịch Sử nổi tiếng là tác giả của rất nhiều tác phẩm thơ, Văn nổi tiếng. “Tuyên ngôn độc lập”, “Vi hành”, “Ngục trung nhật ký”… là những ví dụ tiêu biểu. Chính Người đã từng dạy rằng:

Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam

3. Thực trạng của vấn đề

Do đặc điểm của việc học tập lịch sử - không trực tiếp quan sát các sự kiện, nên phương pháp trực quan có ý nghĩa rất quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.

Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Có nhiều cách phân loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, song về cơ bản chúng ta có thể phân chia chúng thành 3 nhóm lớn thường được sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.

Nhóm thứ nhất: là đồ dùng trực quan hiện vật bao gồm những di tích lịch sử và cách mạng như: thành nhà Hồ, hang Pác Bó, nhà số 5D phố Hàm Long…; những di vật khảo cổ và các di vật thuộc các thời đại lịch sử như: công cụ đồ đá cũ núi Đọ, trống đồng Đông Sơn, gỗ cọc Bạch Đằng… Thông qua việc tiếp xúc với những di tích hay dấu vết còn lại của quá khứ, học sinh sẽ có những hình ảnh cụ thể, chân thực về quá khứ và từ đó có tư duy lịch sử đúng đắn.

Nhóm thứ hai: là đồ dùng trực quan tạo hình bao gồm các loại phục chế, mô hình, sa bàn, tranh ảnh lịch sử…Nó có khả năng khôi phục lại hình ảnh của những con người, đồ vật, biến cố, sự kiện lịch sử một cách cụ thể, sinh động và khá sinh động.

Nhóm  thứ ba: là đồ dùng trực quan quy ước bao gồm các loại bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên biểu…Loại đồ dùng này tạo cho học sinh hình ảnh tượng trưng, khi phản ánh mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển của hiện tượng kinh tế, chính trị - xã hội của đời sống. Nó không chỉ là phương tiện để cụ thể hoá sự kiện lịch sử mà còn là cơ sở để hình thành khái niệm cho học sinh…

Trong phạm vi sáng kiến này tôi chỉ xin đưa ra một số kinh nghiệm trong việc sử dụng đồ dùng trực quan, những câu thơ trong dạy học bộ môn Lịch sử. Trước đây việc sử dụng loại đồ dùng này ở trường Trung học phổ thông còn chưa được chú ý nhiều, việc giảng dạy còn mang tính đọc - chép, giáo viên nói, học sinh nghe, tiếp thu một cách thụ động. Nhiều giáo viên còn dạy chay, nguyên do là thiếu đồ dùng dạy học, không nắm bắt và sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, hoặc một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, với học sinh, hoặc chưa thực sự coi trọng việc sử dung đồ dùng trực quan trong giảng dạy... Kết quả là học sinh cảm thấy nhàm chán, khô khan với môn học. Từ đó đã tạo ra một thế hệ học sinh “quay lưng” với môn Lịch sử, nhiều học sinh học lịch sử chỉ mang tính đối phó, không có hứng thú trong quá trình học, thậm chí không thể nhớ và hệ thống được kiến thức cơ bản của bộ môn. Do đó khi làm bài kiểm tra đã có học sinh cho “Râu ông nọ cắm cằm bà kia”, hoặc “tô hồng” hay “bôi đen” các sự kiện lịch sử. Rồi nhiều con số đáng báo động về số bài thi lịch sử điểm 0 ở các kỳ thi Đại học, Cao đẳng… là một hồi chuông báo động cho toàn xã hội về thái độ học tập của học sinh và phương pháp của giáo viên trong giảng dạy lịch sử hiện nay.

Tất cả các thực trạng trên đều xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là học sinh không có hứng thú học tập bộ môn, còn giáo viên thì chưa thể truyền được cho các em niềm say mê tìm hiểu môn học… Vậy làm thế nào để thay đổi cách học của các em? Phải làm gì để tạo hứng thú cho cho các em khi học môn Lịch sử. Đây là vấn đề mà các giáo viên đang đứng trên bục giảng luôn quan tâm, tìm hướng giải quyết. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy “gây hứng thú cho học sinh trong giờ học Lịch sử” là một trong những yêu cầu thiết yếu, quan trọng hàng đầu trong dạy học lịch sử, phát huy tính tích cực, chủ động, khơi dậy sự say mê, hứng thú của học sinh đối với lịch sử, có nghĩa là đáp ứng được một trong những yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.

Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông – chương trình lớp 12, cùng với tiến trình dạy học lịch sử dân tộc từ đầu thế kỉ XX đến nay, trong một số tiết Lịch sử để dạy đúng về công lao và những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với lịch sử dân tộc Việt Nam thật là quan trọng nhằm giáo dục học sinh cả về đức dục và trí dục. Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945, các tư liệu thành văn về Bác đã được nhiều giáo viên sử dụng rất hiệu quả. Tuy nhiên đối với các tư liệu hình ảnh thì chưa được coi trọng bởi nguồn tư liệu nhiều, nếu phương pháp không khéo sẽ mất nhiều thời gian mà hiệu quả bài học không cao.

          Ngày nay, trong tình hình xã hội ngày càng phát triển, học sinh THPT được tiếp cận với rất nhiều công nghệ hiện đại trong đó có mạng Internet. Qua đó các em được tiếp xúc với nhiều trò chơi, hình ảnh, thông tin tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm lứa tuổi học trò. Nếu không có sự định hướng đúng đắn các em dễ sa ngã hoặc bị đối tượng xấu lợi dụng sẽ dẫn đến có hành vi xấu đối với bản thân và cộng đồng. Ngược lại, mạng Internet cũng chính là nơi cung cấp nguồn tư liệu khổng lồ và có hiệu quả nếu giáo viên biết hướng dẫn học sinh khai thác và sử dụng nó. Chính điều này sẽ giúp giáo viên đỡ vất vả hơn trong việc tìm kiếm tư liệu lịch sử, đặc biệt là những tư liệu hình ảnh về Bác. Thông qua việc tìm kiếm, trình bày những tư liệu, hình ảnh về Bác sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em, đồng thời giúp các em hiểu sâu hơn về công lao và cuộc đời hoạt động của Người. Từ đó các em biết ơn và kính trọng công lao của Bác đối với dân tộc, tự mình học hỏi và làm tốt theo gương Bác.

         Một thực tế nữa là, qua nhiều năm giảng dạy, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất quý giá. Đó là: khi áp dụng kiến thức thơ, văn vào việc giảng dạy Lịch sử rất gây hứng thú cho học sinh trong việc tiếp thu bài. Điều này cũng đã được nhiều đồng nghiệp của tôi thừa nhận và học hỏi sau khi họ dự giờ của cá nhân tôi. Từ kinh nghiệm này, nhiều giáo viên đã bước đầu mạnh dạn đưa thơ, văn vào trong bài giảng nhằm minh họa cho một số sự kiện Lịch sử trong bài dạy. Những tiết học như vậy trở nên sinh động hẳn. Khi cô giáo đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú, sau tiết học, nhiều em còn nhờ cô giáo đọc để chép vào sổ tay. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn.

Trong 9 năm qua, Thực hiện Chỉ thị số 06- CT/TW ngày 07 tháng 11 năm 2006 của Bộ Chính trị và lễ phát động tổ chức thực hiện cuộc vận động

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Ban Chấp hành Trung ương tại lễ kỉ niệm 77 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dịp kỉ niệm 117 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Cuộc vận động đã thu hút mọi tầng lớp nhân dân, mọi giới, mọi ngành tham gia. Là giáo viên giảng dạy Lịch sử ở trường phổ thông, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giờ dạy Lịch sử đỡ khô khan, có ý nghĩa giáo dục thiết thực đối với học sinh nhất là hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm tòi tài liệu và bắt tay vào nghiên cứu giảng dạy một số tiết Lịch sử Việt Nam hiện đại ở lớp 12, giai đoạn 1919 -1945.

Xuất phát từ thực tế học tập của học sinh, từ thực tế đổi mới dạy học, trong phạm vi của sáng kiến này tôi không có tham vọng nhiều, tôi đưa ra phương pháp Sử dụng đồ dùng trực quan với tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945. Lớp 12 - THPT” nhằm trao đổi với đồng nghiệp đôi chút kinh nghiệm được rút ra qua những năm giảng dạy của bản thân. Tôi nhận thấy đây là một vấn đề hay, hấp dẫn, với nhiều hứa hẹn, nếu mỗi giáo viên biết sử dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao chất lượng giờ học Lịch sử.

Thực hiện sáng kiến này, với mong muốn:

- Nhằm trao đổi với đồng nghiệp tư liệu hình ảnh về Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như phương pháp “sử dụng đồ dùng trực quan với tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945”.

- Góp phần phát triển phong trào đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT hiện nay và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Trung ương Đảng, Đảng bộ, Công đoàn và Đoàn thanh niên nhà trường phát động.

- Đề tài này tôi tập trung vào làm rõ hai vấn đề sau:

1. Sử dụng đồ dùng trực quan  trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945.

2. Sử dụng phương pháp tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 -1945.

          Trong nội dung sáng kiến nhỏ này, qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở trường phổ thông, tôi không có tham vọng đi sâu vào tìm hiểu sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học mà chỉ đi sâu vào tìm hiểu phương pháp sử dụng tư liệu, hình ảnh và phương pháp tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh mà bản thân thấy muốn và cần được trao đổi với đồng nghiệp thông qua việc dạy một số bài cụ thể của chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn 1919 -1945. Nhất là dạy học theo chuyên đề.

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.

4.1. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam gia đoạn 1919 - 1945.

4.1.1 Cơ sở khoa học.

          Việc sử dụng phương tiện hiện đại trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đã trở nên rất phổ biến, hầu hết giáo viên, nhất là giáo viên trẻ đều biết và đã sử dụng máy chiếu như một phương tiện hữu hiệu nhất trong các giờ học như: thanh tra chuyên môn, các cuộc thi giáo viên giỏi, các giờ thao giảng, kiểm tra toàn diện…

          Trong đời sống xã hội, lịch sử có tác dụng quan trọng không chỉ về trí tuệ, mà cả về tình cảm, tư tưởng. Tất cả các môn học kể cả môn học tự nhiên và xã hội, ở những mức độ khác nhau đều góp phần giáo dục tư tưởng tình cảm. Ví như môn Địa lý, dạy cho học sinh hiểu rõ đất nước mình để tăng thêm lòng yêu Tổ quốc, yêu quê hương, nâng cao trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên. Môn Văn học giúp học sinh hiểu giá trị, yêu thích thơ văn, để càng yêu quý hơn con người dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, môn Lịch sử có nhiều ưu thế hơn trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ… Những con người, những việc thực của quá khứ có sức thuyết phục, có sự rung cảm mạnh mẽ với các thế hệ trẻ. Sử học phục vụ chính trị rất tốt. Học lịch sử quá khứ giúp cho học sinh nhận thức đúng, rõ đường lối chính trị của Đảng. Song không vì thế mà giảng dạy lịch sử như tuyên truyền đường lối, chính sách, như giải thích chính trị chung chung, nông cạn. Ở đây cần phân biệt hệ tư tưởng xã hội và các môn khoa học có tác dụng giáo dục tư tưởng. Đó là hai mặt của nhận thức xã hội, có điểm giống và khác nhau. Hệ tư tưởng phải dựa vào lý tưởng giai cấp, xã hội, đối với chúng ta đó là lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, là con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra.

Theo lý luận dạy học thì phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá lịch sử của học sinh. Đồ dùng trực quan giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan.

4.1.2. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan

Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào thì học sinh cũng có thể nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ánh, minh hoạ như thế nào. Từ đó các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.

Có nhiều cách khác nhau về phân loại đồ dùng trực quan, song về cơ bản chúng ta có thể chia thành 3 nhóm lớn thường được sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông cụ thể là:

- Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật bao gồm những di tích lịch sử và cách mạng như: hang Pác Bó, Lán Khuổi Nậm, nhà Ông bà nội, Ông bà ngoại của Bác…

- Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình: bao gồm các loại phục chế, sa bàn, tranh ảnh lịch sử như: ảnh Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Tua năm 1920,  hình vẽ người đi săn hươu nai trên vách hang…

- Nhóm đồ dùng trực quan quy ước bao gồm các loại: bản đồ lịch sử, sơ đồ, niên biểu…

          Ví như, dạy Chủ đề 8 tài lỉệu chuẩn kiến thức, kĩ năng: Việt nam từ năm 1919 -1930 - Tiết 2, mục 2 ( tức Bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 -1925 - Tiết 2 – sách giáo khoa cũ), khi dạy về Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc là trọng tâm của tiết học, giáo viên có thể sử dụng máy chiếu để giảng dạy, cùng với việc sử dụng bản đồ “Hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1911 - 1941”, kết hợp với sách giáo khoa viết rất rõ và chi tiết các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc nên cho học sinh về tự đọc và học theo sách giáo khoa, còn trong tiết học giáo viên kết hợp đồ dung trực quan để khắc sâu các sự kiện cơ bản về Nguyễn Ái Quốc. Trước tiên, giáo viên giới thiệu vài nét về gia đình kết hợp với sử dụng hình ảnh gia đình của Bác: Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Ngệ An

 Thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh 1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng ông sớm có ý chí tự lập, thông minh, ham học. Năm 1901 Nguyễn Sinh Sắc thi Hội và đậu phó bảng. Tuy đỗ cao nhưng ông vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của các quan lại trong triều đình Huế. Ông chỉ làm quan trong một thời gian ngắn và sau đó sống bằng nghề dạy học, bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân, ông có tư tưởng yêu nước tiến bộ, nhân cách cao thượng của ông đã ảnh hưởng rát sâu sắc đến những người con. Ông qua đời tại thị xã Cao Lãnh (Đồng Tháp) vào năm 1929, thọ 67 tuổi.

     Thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan sinh năm 1868 trong một gia đình nho học. Bà là một phụ nữ thông minh, cần cù chịu khó, thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái. Bằng nghề làm ruộng và dệt vải bà đã hết lòng chăm lo cho chồng và các con. Cuộc đời của bà tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại hình ảnh về một người phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa và có ảnh hưởng rất lớn tới tu cách của các con mình. Bà qua đời tại Huế năm 1901, lúc 33 tuổi.

     Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trần Thị Thanh, sinh1884, chị đã tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương năm 1954, thọ 70 tuổi.

     Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh năm 1888, từ tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều nơi truyền thụ kiến thức, mở mang văn hoá. Do tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên Nguyễn Sinh Khiêm đã từng bị tù đày nhiều năm. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời năm 1950, thọ 62 tuổi.


                (Chủ tịch Hồ Chí Minh 1890 -1969)

 





              Qua các bức tranh trên, giáo viên có thể hỏi “Qua xem các tranh ảnh trên, em nào có nhận xét gì?” sau khi học sinh trả lời, giáo viên có thể nhắc lại về tiểu sử của Nguyễn Ái Quốc, và chốt lại bằng 2 câu thơ:

“Tháp Mười đẹp nhất Hoa Sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.

 từ đó tạo biểu tượng cho các em nhớ lâu các sự kiện, các nhân vật lịch sử.

              Tiếp đến, giáo viên giới thiệu bản đồ về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và phát vấn học sinh: “Em hãy nêu hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 -1925” học sinh sẽ tóm lược những sự kiện cơ bản trong sách giáo khoa, sau đó giáo viên nhận xét, chỉ bản đồ bằng các hiệu ứng nhấp nháy trên bản đồ phân tích và nhắc các em về nhà tự hoàn thiện niên biểu: thời gian, sự kiện tiêu biểu về quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.





            Qua theo dõi 2 bức tranh, giáo viên kết hợp đọc 4 câu thơ trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên:

Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi.

Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác!

Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất,

Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre...”

 



          Qua bức tranh trên, giáo viên có thể trích lời phát biểu của Bác tại Đại hội: “Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm, vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”. Từ đó, giáo dục các em biết trân trọng lịch sử, thể hiện niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần đấu tranh vì độc lập dân tộc và lòng căm thù đối với giặc ngoại xâm.

 Hay ở Bài 16 – “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khới nghĩa tháng Tám

(1 939-1945”). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.

a) Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tình cảm của Người khi trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, có thể khai thác sử dụng:

“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt

Sáng rừng Việt Bắc trắng hoa mơ

Người về. Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”

(Tố Hữu-SĐD)

b) Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc hoạ hình ảnh của Mặt Trận Việt Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thu nhỏ” đầy tính ưu việt, có thể sử dụng thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“… Có mười chính sách bày ra

Một là ích nước, hai là lợi dân

Bao nhiên thuế ruộng, thuế thân

Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền

Hội hè, tín ngưỡng, báo chương

Họp hành, đi lại có quyền tự do

Nông dân có ruộng, có bò,

Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn.

Công nhân làm lụng gian nan

Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ.

Gặp khi tai nạn bất ngờ

Thuốc thang Chính phủ bây giờ giúp cho.

Thương nhân buôn bán nhỏ to

Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền

Nào là những kẻ chức viên

Cả lương đãi ngộ cho yên tấm lòng

Binh lính giữ nước có công

Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu

Thanh niên có trường học nhiều

Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho

Đàn bà cũng được tự do

Bất phân nam nữ đều cho bình quyền

Người tàn tật, kẻ lão niên

Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho

Trẻ em bố mẹ khỏi lo

Dạy nuôi, chính phủ giúp cho đủ đầy”

(Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta – Tập 3, Tr 152, 153)

Như vậy, có thể nói đồ dùng trực quan cũng như các câu thơ - văn có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu nhận được bằng trực quan và các áng thơ - văn là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà. Đồ dùng trực quan góp phần to lớn nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại. Sau khi được xem các hình ảnh và các câu thơ khắc họa về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, học sinh sẽ có những tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến lãnh tụ, những anh hùng, chiến sĩ cách mạng, lòng quý trọng lao động và nhân dân lao động, từ đó giúp các em có cái nhìn đúng đắn về bè lũ xâm lược và chiến tranh.

 



4.2. Sử dụng phương pháp tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945

4.2.1. Lí luận

          Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức sáng ngời của Người sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Người mãi mãi là tấm gương cho các thế hệ chúng ta học tập và noi theo. Tư tưởng và đạo đức của Người không gì có thể so sánh nổi và không sao kể hết.

          Trong 9 năm qua, Trung ương Đảng, Chính Phủ đã  tổ chức phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã được toàn dân tham gia hưởng ứng. Tư liệu, hình ảnh về cuộc đời và hoạt động của Người được đăng tải trên nhiều phương tiện, tác động mạnh mẽ tới tất cả các tầng lớp nhân dân trong đó có học sinh. Giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh cần tập trung vào các điểm chủ yếu sau:

- Tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

          - Tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích.

          - Tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.

          - Tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.

          - Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

          Tuy nhiên, tùy theo từng lứa tuổi học sinh, các lớp, các cấp, bậc học mà giáo viên cung cấp cho hoc sinh ở các mức độ khác nhau, thông qua các môn học và các hoạt động giáo dục khác nhau. Đối với môn Lịch sử lóp 12,  kiến thức có nhiều, tuy nhiên với thời gian 45 phút - một tiết dạy, đòi hỏi giáo viên phải biết lựa chọn những kiến thức cơ bản, những sự kiện tiêu biểu  giúp học dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu các sự kiện lịch sử.

4.2.2. Phương pháp sử dụng

          Trong tư tưởng, cũng như trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh coi nội dung giáo dục không chỉ có kiến thức văn hóa mà quan trọng hàng đầu là giáo dục đạo đức, nhân cách, tình cảm, lối sống, nhằm tạo ra những con người vừa có tài, vừa có đức, những con người phát triển toàn diện đức, trí, thể, mĩ. Hội tụ đầy đủ các phẩm chất nhân, trí, lễ, nghĩa, tín, dũng, liêm, chính… Đây là tư tưởng cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về giáo dục. Người nói: “Trong giáo dục không những có trí thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai ”.{ 7, 498}. Hồ Chí Minh luôn khẳng định phương châm giáo dục là “Lý luận đi đôi với thực hành, học đi đôi với hành, học để hành ngày càng tốt hơn”. Trong bài thơ “Dạ bán” (Nửa đêm), Người viết:

“Thiện, ác nguyên lai vô định tính

Đa do giáo dục đích nguyên nhân”.

Nghĩa là:                        Hiền dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên

                                               (Nam Trân dịch)

          Trong dạy học lịch sử, việc học đi đôi với hành được thể hiện trước hết là thực hành bộ môn để tạo cho học sinh có biểu tượng lịch sử chân xác, giàu hình ảnh. Công việc này thể hiện ở việc làm các đồ dùng trực quan, tập viết và trình bày các bài tường thuật, miêu tả về một sự kiện lịch sử, đọc tài liệu, giải thích, phân tích nội dung một hiện tượng, minh hoạ bằng tranh vẽ nội dung một sự kiện, chân dung một nhân vật lịch sử…Hành trong bộ môn lịch sử ở trường phổ thông còn là vận dụng kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới và hoàn thành những việc công ích xã hội như: tham gia sưu tầm, biên soạn lịch sử địa phương, xây dựng nhà truyền thống, thông tin tuyên truyền lịch sử, bảo vệ tu sửa các di tích lịch sử…

          Những tư tưởng vừa nêu được hiện ra trên những nụ cười thân mật, qua những cử chỉ âu yếm, những câu dặn dò, khuyên bảo ân cần trong các bức ảnh Bác Hồ với các cháu thiếu niên nhi đồng, với học sinh:




Ai yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh?”

          Một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về giáo dục là coi tự học và học suốt đời là tố chất không thể thiếu trong tư duy và hành động của con người hiện đại. Người khẳng định “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, trong cuộc đời hoạt động của mình Bác luôn quan tâm, tự tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử văn hoá dân tộc. Bên cạnh đó, Người còn khẳng định: Tương lai dân tộc, tiền đồ của Tổ quốc và sự thành công của cách mạng phần lớn phụ thuộc vào việc giáo dục và đào tạo thanh niên. Người chỉ rõ "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó".{ 6, 185}.


      Ngày nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, để các thế hệ thanh niên có thể trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp xây dựng đất nước thì nhiệm vụ giáo dục và đào tạo thanh niên lại càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa".

          Con người xã hội chủ nghĩa phải là những con người được phát triển toàn diện. Đó là những con người có thế giới quan khoa học, có sức khoẻ, có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng, có tri thức và đặc biệt là phải có đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân phục vụ cách mạng. Người nói: “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân  .{ 6, 262}.

          Trong dạy học lịch sử lớp 12 giai đoạn 1919 -1945, qua chủ đề 8 và 9

(bài học: 12, 13, 15, 16 sách giáo khoa cũ), giáo viên có thể kết hợp tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào trong tiết dạy của mình.

           Ví như khi dạy Chủ đề  8: Việt  Nam từ năm 1919 -1930 ( bài 12, 13 sách giáo khoa cũ) sau khi dạy bài 12, mục: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, giáo viên nhấn mạnh những hoạt động của Người trước và sau khi tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc (trước và sau năm 1920) và sự kiện Người đọc Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin (tháng 7/1920), sự kiện tháng 12/1920 Người tham dự Đại hội Tua, bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế cộng sản và thành lập Đảng cộng sản Pháp. Cùng với đó, giáo viên kết hợp đọc mấy câu thơ của Chế Lan Viên:

Luận cương đến! Bác Hồ và Người đã khóc

Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin…

          Qua những sự kiện trên, giáo viên nhấn mạnh đây là sự kiện đánh dấu quan trọng trong cuộc đời của Người, bước ngoặt tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn và phát triển cho dân tộc Việt Nam – con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ đó giáo dục cho học sinh tinh thần vượt qua mọi khó khăn, gian khổ quyết tâm tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc của Bác để các em học tập.

          Hoặc khi dạy bài 13 - tiết 2, mục:  Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, với sự kiện Hội nghị thành lập Đảng: Ngày 06/01/1930 Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc) thống nhất thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam và quốc tế, đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản…qua đây giáo viên nhấn mạnh và giáo dục cho học sinh ý thức trách nhiệm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân của Bác, từ đó các em có cái nhìn đúng đắn về lịch sử dân tộc và ý thức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng mà cha ông ta đã giành được.

          Khi dạy bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám (1939 -1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Khi dạy về Tình hình Việt Nam những năm 1939 – 1945 và phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng 3/1945, giáo viên phân tích cho học sinh thấy tình hình chính trị thế giới và tình hình kinh tế xã hội Việt Nam trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, trước những khó khăn chuyển biến như vậy nhưng Đảng ta - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt thời cơ và đề ra đường lối đấu tranh cho phù hợp với tình hình trong nước lúc bấy giờ thông qua Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 và Hội nghị Trung ương tháng 5/1941, dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941).



Lán Khuổi Nậm – nơi họp Hội nghị lần thứ 8 (5/1941)

Kết hợp giáo viên đọc 2 câu thơ trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước”:

Ba mươi năm ấy chân không mỏi

Và đến bây giờ mới tới nơi.

          Giáo viên lấy dẫn chứng phân tích: sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, sau một thời gian chuẩn bị Người đã chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương tại Pác Bó (Hà Quảng - Cao Bằng). Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc… và quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh. Vì vậy hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang đã nổ ra tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.

          Khi dạy về cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám 1945: giáo viên phân tích diễn biến của cuộc Tổng Khởi nghĩa, sự ra đời của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nội dung của Tuyên ngôn độc lập và minh hoạ bằng các hình ảnh:


 




“Toàn cảnh Quảng trường Ba Đình Hà Nội, ngày 2/9/1945”

          Qua các bức tranh trên, giáo viên nhấn mạnh cho học sinh thấy được tinh thần và quyết tâm đấu tranh của Chủ  tịch Hồ Chí Minh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì sự nghiệp giải phóng đất. Năm 1945 - năm thử thách lớn của vận mệnh dân tộc, nhưng Bác đã khẳng định : “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới. Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.{ 5, 256}.Thắng lợi của cách mạng tháng Tám, đã đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng Vỉệt Nam, mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp. Mới  15 tuổi Đảng đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc. Vì vậy, ngày 2/9/1945 trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Từ đó giáo dục các em có ý thức trách nhiệm đối với đất nước, nhất là trong điều kiện hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển lượng sản xuất, chủ nghĩa đế quốc đang tìm cách lợi dụng xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế để tiến hành "diễn biến hoà bình" thực hiện những mưu đồ chính trị nhằm chống phá chế độ XHCN ở nước ta. Vì vậy, mỗi chúng ta - thế hệ thanh niên, những chủ nhân tương lai của đất nước hãy nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành quả mà cha ông ta đã giành được.

5. Kết quả đạt được

          - Thực tiễn giảng dạy những năm qua tôi đã thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan và làm thêm tư liệu để giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông.

          - Sau nhiều năm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và tám năm thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đặc biệt là các buổi sinh hoạt chuyên đề, giáo dục ngoài giờ lên lớp, CLB bộ môn, tổ chức ngoại khóa, các cuộc thi kiến thức… dưới cờ của Đoàn thanh niên, Tổ chuyên môn, tôi thấy chất lượng dạy và học của giáo viên ngày càng được nâng cao rõ rệt.

5.1. Đối với giáo viên:

          - Hầu hết giáo viên lịch sử của nhà trường đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.

          - Biết cách kết hợp các phương pháp giảng dạy lịch sử, đặc biệt phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học.

- Tích cực hưởng ứng cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, lồng ghép tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học bộ môn.

5.2. Đối với học sinh:

- Chất lượng môn học lịch sử ngày một cao, học sinh yêu thích môn lịch sử, thích  các trò chơi lịch sử và chuyên đề dưới cờ.

- Qua các giờ học sử dụng đồ dùng trực quan sinh động đã góp phần phát triển năng lực nhận thức cho các em nhất là khả năng tư duy độc lập. Trước đây khi chưa chú ý sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy bộ môn, học sinh thường chán học, học chống đối, học vẹt. Còn hiện nay, hầu hết các em đều có thể nắm được những sự kiện cơ bản, ít nhầm lẫn.

- Khi sử dụng đúng thời điểm thì hiệu quả thu được sẽ cao, tuyệt đại đa số học sinh đều hào hứng, tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia xây dựng bài và có tinh thần đoàn kết trong học tập.

- Qua các bài học, các trò chơi lịch sử, các chuyên đề dưới cờ giúp các em thêm yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống cha ông, đồng thời cũng giúp các em hiểu và cư xử đúng mực, trân trọng những gì mình đang có và đang được hưởng thụ.

6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.

 Đồ dùng trực quan, đặc biệt là bản đồ, tranh ảnh là phương tiện không thể thiếu trong hoạt động dạy, học. Bằng những bản đồ, hình ảnh… kết hợp với việc giáo viên sử dụng phương pháp tốt sẽ giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập. 

Những đò dùng trực quan khi sử dụng trong bài giảng cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đặc biệt là những bản đồ, tranh ảnh tạo ấn tượng, giúp học sinh nhớ kĩ, khắc sâu kiến thức đồng thời tái hiện lại kiến thức đã học.

Về phương pháp sử dụng: Phải sử dụng tinh tế, khéo léo vừa đảm bảo tính trực quan vừa đảm bảo tính khoa học. Điều đáng lưu ý là bản đồ, tranh ảnh dù sinh động đến đâu cũng không thể giúp học sinh học tốt nếu thiếu sự chỉ bảo tận tình của giáo viên bộ môn. Vậy với cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn người giáo viên phải luôn tác động vào ý thức học tập của các em, phải khơi dậy trong các em sự tìm tòi, ham hiểu biết sẵn sàng khám phá khoa học.  

          Với việc “sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử” mỗi thầy cô giáo có thể sử dụng thành công nếu:

          +  Mỗi thầy cô giáo lao động thực sự, có tâm huyết, lòng say mê nghiên cứu lịch sử, đầu tư thời gian cho soạn giảng.

          + Phải nắm vững nội dung và yêu cầu của tiết dạy

          + Phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học bộ môn trong từng bài, từng mục.

          Nếu mỗi giáo viên lịch sử đều làm như vậy, tôi tin tưởng rằng chất lượng dạy và học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông sẽ được nâng lên rõ rệt.

 

 

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Lịch sử nước ta vô cùng phong phú và đa dạng và luôn chứa đựng nhiều ẩn số. Ngày nay khoa học nói chung và khoa học lịch sử nói riêng phát triển như vũ bão. Chương trình và sách giáo khoa phổ thông là nguồn tài liệu tham khảo, dù có phong phú đến mấy nhưng cũng khó thể hiện được tính cụ thể, sinh động của lịch sử. Nhất là trong thời gian có hạn - 45 phút, giáo viên khó có thể truyền tải hết kiến thức lịch sử, đòi hỏi mỗi giáo viên phải biết lựa chọn những phương pháp phù hợp cho từng bài, từng tiết, từng đối tượng học sinh, để giờ học lịch sử đỡ khô khan, cứng nhắc, làm sao cho học sinh tiếp thu được nội dung lịch sử đạt hiệu quả cao.

2. Khuyến nghị

Qua thực tiễn giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông nhiều năm, nhất là trong điều kiện tích cực thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Là một giáo viên tôi đã rút ra một số kinh nghiệm và khuyến nghị như sau:

Thứ nhất: Đối với sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, mỗi giáo viên cần chú ý các nguyên tắc sau:

Một là, phải căn cứ vào nội dung giáo dục, giáo dưỡng của bài để lựa chọn đồ dùng trực quan cho phù hợp với bài dạy.

Hai là, tuỳ từng lớp, từng đối tượng và từng bài có thể sử dụng đồ dùng trực quan.

Ba là, phải có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan, phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan của học sinh.

Bốn là, Phát huy được tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan.

Năm là, phải kết hợp lời nói với việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan.

Thứ hai: Đối với việc thực hiện tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử,

mỗi giáo viên cũng phải đảm bảo thực hiện theo một số nguyên tắc:

Một là, Nội dung giáo dục về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông là cần thiết và bắt buộc nhất là đối với học sinh lớp 12.

Hai là, Mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục ở các cấp học, bậc học phải phù hợp với mục tiêu của các cấp, bậc tương ứng, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông nói chung.

Ba là, giáo dục phải phù hợp với đặc điểm, tâm sinh lí lứa tuổi học sinh và theo môn học, theo các hoạt động giáo dục chính khoá, ngoại khoá, phù hợp với đặc trưng của môn học.

Bốn là, tuỳ theo nội dung, đặc điểm và khả năng thực hiện việc tích hợp giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh của môn học để lựa chọn mức độ tích hợp thích hợp và có thể lồng ghép những tranh ảnh, phim, kể chuyện,  nếu thấy phù hợp.

Ngoài ra tôi cũng xin đưa ra một số khuyến nghị khác nữa là:

- Lịch sử là linh hồn của dân tộc, của Tổ quốc, trong nhà trường bộ môn Lịch sử cũng có ý nghĩa như vậy. Học Lịch sử sẽ giúp học sinh, sinh viên biết "ứng xử với quá khứ thế nào và vận dụng quá khứ đó đối với cuộc sống hôm nay và sau này. Lịch sử là cuộc đối thoại liên tục đối với quá khứ và hiện tại" (GS.Phan Huy Lê). Vì vậy, để trả môn Lịch sử về đúng vai trò và vị trí của nó trong nhà trường. Tôi đề nghị Bộ Chính trị BCHTW Đảng cần có Chỉ thị hoặc Nghị quyết Chuyên đề về việc tăng cường sự lãnh đạo, quản lý đối với việc đổi mới dạy và học Lịch sử trong nhà trường.

- Bác Hồ kính yêu đã từng nói "Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam". Để việc học Lịch sử đặc biệt là lịch sử dân tộc trở thành phổ cập toàn dân và là nhu cầu thiết yếu đối với mọi người trong xã hội, tôi đề nghị Nhà nước ta phải làm sao thay đổi được nhận thức cơ bản của mọi người dân về vị trí, vai trò của môn Lịch sử đối với đời sống của nhân dân, cần có giải pháp tuyên truyền giáo dục, phổ biến tri thức lịch sử bằng mọi hình thức ở mọi nơi, mọi lúc thậm chí cần thể chế hóa hoặc pháp lý hóa tri thức lịch sử trong sinh hoạt đời sống hàng ngày của mọi người. Cần có những quy định bắt buộc phải được kiểm tra kiến thức lịch sử dù thật đơn giản bằng hình thức trả lời, trắc nghiệm chẳng hạn khi xin việc làm, xin cấp các loại giấy chứng nhận, giấy phép cá nhân, giấy chứng minh nhân dân…

- Bộ GD&ĐT cần phải làm thay đổi nhận thức của giáo viên, phụ huynh học sinh và học sinh về vị trí, tầm quan trọng và sự cần thiết của môn Lịch sử trong hệ thống các môn học, không còn coi môn Lịch sử là môn phụ nữa; Bộ GD&ĐT phải dành mọi ưu tiên đầu tư cho việc đổi mới căn bản, toàn diện việc dạy và học môn Lịch sử trong nhà trường. Từ việc đầu tư xây dựng chương trình, đổi mới phương pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá đến việc đào tạo, bồi dưỡng sàng lọc đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Lịch sử và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy và học Lịch sử. Có quy định môn Lịch sử là môn học bắt buộc đối với tất cả các ngành học từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên. Cùng với môn Toán và môn Ngữ văn, môn Lịch sử phải được tăng thêm số tiết và hệ số điểm ở các kỳ thi; cho giáo viên lịch sử được ưu tiên đi tham quan học tập và bồi dưỡng thường xuyên ở trong và ngoài nước.

- Chúng tôi đề nghị Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Giáo dục Lịch sử Việt Nam thuộc hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cần phải có những động thái tích cực hơn nữa trong việc phối hợp cùng ngành GD&ĐT thực hiện thành công việc đổi mới căn bản và toàn diện việc dạy và học Lịch sử. Đặc biệt là việc soạn thảo chương trình SGK lịch sử mới sau năm 2015 và công tác bồi dưỡng giáo viên lịch sử…

          Thực tiễn công tác giảng dạy ở trường phổ thông, với những kinh nghiệm còn ít ỏi, tôi cũng mong muốn góp một phần nhỏ vào sự phát triển của bộ môn, vào sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy và nội dung đề tài còn nhiều hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của bạn bè và đồng nghiệp để công tác giảng dạy của tôi đạt hiệu quả hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN……………………………………..

TÓM TẮT SÁNG KIẾN………………………………………………………..

MÔ TẢ SÁNG KIẾN……………………………………………………………

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

2. Cơ sở lí luận của vấn đề

3. Thực trạng của vấn đề

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.

     4.1 Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam gia đoạn 1919 - 1945.

            4.1.1 Cơ sở khoa học.

            4.1.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan

     4.2 Sử dụng phương pháp tích hợp tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945

            4.2.1 Lí luận

            4.2.2 Phương pháp sử dụng

5. Kết quả đạt được

6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



 

 


 


Đăng nhận xét

0 Nhận xét