TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC
BẰNG
CÁCH LIÊN HỆ THỰC TẾ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Môn Hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và
phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động
trong việc tiếp thu, cảm nhận.Trước tình hình đó, Hóa học phải đổi mới phương
pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một
trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực
tế.
Có những vấn đề Hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng
trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa
học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể
ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ
thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ động,
sáng tạo, hứng thú trong môn học.
Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải
có vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế,
tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham
mê học tập của học sinh.
Chính vì vậy, tôi xin đưa ra sáng kiến kinh
nghiệm : “ Tạo hứng thú học tập môn Hóa
học bằng cách liên hệ thực tế”.
II. TỔ
CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI :
1. CƠ SỞ
LÝ LUẬN :
1.1.CƠ SỞ
KHOA HỌC :
1.1.1.Hóa
học với thực tiễn cuộc sống :
a) Tác
động của hóa học đến đời sống con người :
Không
có môn khoa học nào lại có nhiều ứng dụng như môn Hóa học :
- Trong tự nhiên, nhờ có hóa học mà chúng ta có thể khám phá thiên
nhiên, nắm được tính chất, quy luật của thiên nhiên và con người ngày càng
thành công trong ngành khoa học khám phá vũ trụ, trái đất,…
- Trong đời sống, sản xuất : Hóa học được ứng dụng trong việc nghiên
cứu thành phần, tác dụng, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, các quy
trình sản xuất (sản xuất, chế biến các nguồn nguyên liệu thô thành các nguyên
liệu có thể sử dụng trong đời sống sản xuất, chế biến các loại nông sản, chế
tạo ra các đồ dùng, vật dụng hằng ngày).
b) Tác
dụng của các kiến thức thực tế về hóa học :
- Giúp học sinh nắm được cơ sở hóa học, nắm vững và củng cố kiến
thức cơ bản về hóa học.
- Nắm nhanh và kĩ các kiến thức đã học trong bài. Hóa học là ngành
hóa học thực nghiệm, học lý thuyết và kiểm tra lại bằng các thí nghiệm. Chính
việc tiến hành các thí nghiệm sẽ phát sinh các vấn đề để các em có thể hiểu sâu
và kĩ các kiến thức đã học, qua đó các em hiểu bài hơn.
- Các kiến thức hóa học thực tế làm cho học sinh hiểu được vai trò
to lớn của hóa học trong đời sống : kinh tế, quốc phòng, sinh hoạt,… thúc đẩy
sự ham hỏi của học sinh.
- Giúp học sinh hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng trong đời
sống hằng ngày một cách đúng đắn. Các em sẽ nhận thức được những gì có ích,
những gì có hại để điều chỉnh hành vi của mình.
1.1.2. Tác
dụng của việc liên hệ thực tế trong giảng dạy :
a) Với người thầy :
- Phát huy khả năng truyền thụ
kiến thức của người thầy. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế trong bài giảng
sẽ nâng cao hiệu quả giảng dạy.
- Mở rộng kiến thức hóa học thực
tế rèn luyện một số kỹ năng dạy học :
+ Kỹ năng diễn đạt.
+ Kỹ năng sử dụng phương tiện dạy
học.
+ Kỹ năng tiến hành thí nghiệm.
+ Kỹ năng phân bố thời gian.
+ Kỹ năng giao tiếp
- Kích thích lòng ham thích học
tập của học sinh
- Tạo ra giờ học lý thú bổ ích.
Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế sẽ có rất nhiều câu hỏi đặt ra kích thích
học sinh tư duy trả lời, bầu không khí của lớp sẽ trở nên sôi động, tạo điều
kiện cho các học sinh còn nhút nhát tham gia vào bài giảng.
- Gần gũi với học sinh. Khi giáo
viên thực hành các kỹ năng nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên
sẽ có nhiều cơ hội giao tiếp với học sinh. Nhờ đó mà sẽ tạo được ấn tượng tốt
với học sinh
b) Với học sinh :
- Các em trở nên yêu thích môn
hóa. Khi học sinh được hiểu thấu đáo các vấn đề hóa học, được tham gia vào các
hoạt động thực tế… Các em sẽ có hứng thú với môn học vì các em đã nắm được tầm
quan trọng của môn học, từ đó nâng cao thành tích học tập.
- Nắm được các kiến thức cơ bản
của hóa học. Các kiến thức hóa học thực tế lấy nền tảng là các kiến thức hóa
học mà học sinh đã học ở nhà trường, tác dụng của các kiến thức này là giải
thích các bản chất của sự vật, hiện tượng do đó các em sẽ có nhiều cơ hội tiếp
xúc các kiến thức hóa học, các em sẽ nắm rõ các kiến thức hơn.
- Hình thành kỹ năng tư duy, sử
dụng sách… Các kiến thức mới luôn thúc đẩy học sinh tìm tòi phát hiện kiến thức
trong sách báo.
- Phát huy tính tích cực sáng tạo
trong học tập
1.1.3. Liên
hệ thực tế là một biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh :
Cái
mới luôn là cái kích thích chúng ta tìm hiểu nhất. Việc liên hệ thực tế sẽ thúc
đẩy học sinh tìm tòi khám phá trong học tập. Hiểu và giải thích được các hiện
tượng tự nhiên là một động cơ thúc đẩy học sinh học tập. Các kiến thức hóa học
sẽ thu hút sự chú ý lắng nghe trong giờ học và ham thích học hỏi, tìm kiếm sách
vở, rèn luyện khả năng sử dụng sách… Qua đó, các em sẽ thấy được những lý thú
của các kiến thức đã học, tăng thêm lòng yêu thích môn học.
Hứng
thú học tập là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập của học sinh.
Học sinh có khả năng mà không có hứng thú thì cũng không đạt kết quả, giáo viên
giỏi chuyên môn mà không có kỹ năng tạo hứng thú học tập cho học sinh thì chưa
thành công. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ kiến thức và tất cả các
yếu tố phục vụ cho công việc dạy học. Kỹ năng tạo hứng thú là kỹ năng quan
trọng nhất, mà để có được kỹ năng này thì đầu tiên người giáo viên phải có kiến
thức sâu, rộng, phải luôn cung cấp cho học sinh lượng kiến thức : ĐỦ, ĐÚNG,
MỚI, THIẾT THỰC.
Với
giáo viên bộ môn Hóa học, kiến thức hóa học thực tế sẽ đáp ứng mặt thiết thực
của kiến thức.
1.2. THỰC
TRẠNG DẠY HỌC MÔN HÓA HỌC Ở TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ :
1.2.1.
Thuận lợi :
- 100% giáo viên đã đạt chuẩn.
- Trong quá trình giảng dạy môn
hóa, giáo viên đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp như : phương pháp
trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp vấn đáp, phương pháp liên
hệ thực tế trong bài giảng….
- Giáo viên đã có sử dụng các đồ
dùng và phương tiện dạy học như thí nghiệm, mô hình, tranh …. và từng bước ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học hóa học.
- Học sinh có chú ý nghe giảng,
tập trung quan sát thí nghiệm, giải thích một số hiện tượng trong cuộc sống và
suy nghĩ trả lời các câu hỏi do giáo viên đặt ra.
- Học sinh tích cực thảo luận nhóm
và đã đem lại hiệu quả trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
1.2.2.
Khó khăn :
Hiện nay ở trường, một số học sinh
chưa biết tác dụng của môn hóa học, do việc giảng dạy ở trường còn mắc phải một
số khuyết điểm :
- Còn thiên về lý thuyết thiếu
thực tế.
- Chưa cung cấp cho học sinh các
kiến thức hóa học có ứng dụng nhiều trong thực tiễn.
- Do đầu vào thấp, cho nên khả
năng vận dụng kiến thức để lý giải các tượng liên quan đến hóa học đối với học
sinh còn khó khăn.
* Do đó, để khắc phục các nhược điểm trên và để nâng cao khả năng vận
dụng lý thuyết vào thực tiễn, để tạo hứng thú trong việc học môn Hóa học thì
việc liên hệ thực tế trong quá trình
giảng dạy là cần thiết.
2. NỘI
DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI :
a) Liên hệ thực tế khi giới thiệu bài giảng mới.Cách nêu vấn đề này có
thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề
rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm
của học sinh trong quá trình học tập.
Ví dụ 1 : Khi dạy về bài CLO (ở lớp 10),
giáo viên có thể mở bài như sau :
- GV : Mỗi khi mở vòi
nước máy chúng ta thường ngửi thấy có mùi xốc rất khó chịu. Đó là vì tại nhà
máy nước người ta đã sục vào đó một chất khí có tác dụng diệt khuẩn. Các em có
biết khí đó là khí gì không ?
- HS có thể biết sẽ trả
lời đó là khí clo.
- GV : Đây cũng là tên
bài học của chúng ta hôm nay.
* Cách giới thiệu này sẽ tạo
cho học sinh chú ý hơn để tìm hiểu tại sao clo lại có tính chất như vậy. Và
trong quá trình học về tính chất của khí Clo các em sẽ giải thích được như sau
:
Khi sục vào nước một lượng nhỏ clo, nước có tác dụng sát trùng do
clo tan một phần (gây mùi) và một phần với nước :
H2O + Cl2 HCl + HClO
Hợp chất HClO không bền có tính oxi hóa mạnh :
HClO ® HCl + O
Oxi nguyên tử
có khả năng diệt khuẩn.
Ví dụ 2 : Khi dạy về bài Amoniac và muối
amoni (ở lớp 11), giáo viên có thể mở bài như sau :
- GV : Khi aên baùnh bao ta thöôøng thaáy coù nhöõng
loå xoáp. Ñoù laø do nhöõng boït khí thoaùt ra ñeå laïi caùc loå hoång treân
boät. Ñoù laø khí gì vaäy ? |
- HS suy nghó traû lôøi :
- GV : Thaønh phaàn ñeå laøm baùnh bao laø boät nở (NH4)2CO3
. khi nhieät phaân seõ giaûi phoùng ra khí CO2 vaø 1
chaát khí coù muøi khai. Khí muøi khai naøy coù tính chaát gì? Noù coù ñoäc
khoâng, aên baùnh bao coù nguy hieåm khoâng ? Baây giôø chuùng ta seõ tìm
hieåu tính chaát cuûa chaát khí treân qua baøi : Amoniac vaø muoái amoni |
* Trong quá trình học về tính chất
của muối amoni, học sinh sẽ hiểu được hiện tượng trên là do :
(NH4)2CO3
được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc hấp bánh thì (NH4)2CO3
sẽ bị phân hủy dưới tác dụng của nhiệt :
(NH4)2CO3 2NH3
+ CO2 + H2O
Như vậy, khi hấp bánh bao khí CO2,
NH3 thoát ra để lại vô số lỗ nhỏ trong bánh bao làm cho bánh bao vừa
to lại vừa xốp và có mùi khai là mùi đặc trưng của amoniac.
Ví dụ 3 : Khi dạy
về bài PHOTPHO (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế khi mở bài như sau
:
- GV : Trong “Văn tế
thập loại chúng sinh”, thi hào Nguyễn Du đã viết :
“Lập
lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẵng tối trời còn thương”
Thế “ma trơi” là cái gì vậy ? Các nhà văn tưởng tượng ra chăng ? Không
phải, “ma trơi” quả là có thật. Nếu các em có dịp đi qua các nghĩa trang vào
ban đêm thì các em sẽ thấy tại một số ngôi mộ tỏa ra những ngọn lửa màu xanh
lãng đãng lập lòe mà dân gian thường gọi là “ma trơi”. Bài học ngày hôm nay sẽ
giúp các em hiểu được hiện tượng này. Đó là bài PHOT PHO.
* Sau khi học xong bài Photpho giáo viên
sẽ giúp học sinh hiểu được hiện tượng trên là do :
Trong
cơ thể (xương động vật) có chứa một hàm lượng photpho khi chết phân hủy tạo một
phần thành khí PH3 (photphin), khi có lẫn một chút khí P2H4
(diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo
thành khối cầu khí (lửa “ma trơi”)bay trong không khí. Bất kể ngày hay đêm đều
có PH3 bay ra ở các nghĩa trang, chỉ có điều là ban ngày ánh sáng
mặt trời quá mạnh nên ta không thấy được ma trơi.
2PH3
+ 4O2 → P2O5 + 3H2O
Điều
trùng lặp ngẫu nhiên là : Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa càng tăng
thêm sự mê tính dị đoan.
Ví dụ 4 : Khi học
bài OZON (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau :
- GV : Sau mỗi trận
mưa, các em cảm thấy bầu trời, khí hậu như thế nào ?
- HS : Bầu trời quang
đãng hơn, khí hậu mát mẻ hơn.
- GV : Thật vậy, sau
cơn mưa to sấm nổ đùng đùng, khi mưa tạnh, nắng lên, mọi người thường cảm thấy
như căn phòng, đường xá, khu phố… thậm chí cả bầu trời xanh kia mát mẻ trong
lành hẳn lên. Hít thở cũng thật dễ chịu. Đó là nguyên nhân gì nhỉ ? Để hiểu
được điều này, hôm nay chúng ta sẽ học bài : OXI – OZON.
* Trong khi học về phần Ozon, học sinh sẽ
hiểu được hiện tượng trên là do : Khi có những tia chớp điện thì một phần oxi
trong không khí sẽ biến thành ozon :
3O2
→ 2O3
Ozon khi rất loãng không có mùi hôi, ngược
lại còn cho con người ta có cảm giác tươi mát, thanh sạch dễ chịu. Nó còn có
tác dụng sát trùng, làm sạch không khí, rất có lợi cho cơ thể con người.
Ví dụ 5 : Khi học
về bài IOT (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau :
- GV
: Hằng ngày, các em thường ăn muối gì ?
- HS
: Đó là muối iot ?
- GV
: Tại sao phải ăn muối có iot ?
- HS
: Để trị bệnh bướu cổ.
- GV
: Ăn muối iot để bổ sung hàm lượng
iot cho cơ thể, trong cơ thể một người trưởng thành có chứa 20 - 50mg iot chủ
yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu iot trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một
số bệnh : Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần độn, phụ nữ thiếu iot dẫn đến vô
sinh, có biến chứng sau khi sanh. Mỗi ngày phải đảm bảo cho cơ thể hấp thụ với <
150 microgam iot. Vậy iot có những tính chất như thế nào ? Bài IOT hôm nay sẽ
giúp chúng ta tìm hiểu về tính chất của nguyên tố này.
b) Liên hệ thực tế qua các phản ứng hóa học cụ thể
trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học
sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích
để giải tỏa tính tò mò của học sinh.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài ANKIN, sau
khi học xong phần điều chế axetilen, giáo viên có thề liên hệ thực tế như sau :
- GV :
Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết ? Trong nông nghiệp, đất đèn dùng để
làm gì ?
- HS : Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua, khi tác dụng với
nước sinh ra khí axetilen và canxi hydroxit.
CaC2 + 2H2O ® C2H2 + Ca(OH)2
Các chất này làm tổn thương đến các
hoạt động hô hấp của cá, vì vậy có thể làm cá chết.
Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả
xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dú chuối, cà chua…
Ví dụ 2 : Khi dạy về
bài FLO (lớp 10), sau khi học xong tính chất của axit HF, giáo viên có thể liên
hệ thực tế như sau :
- GV :
Tại sao không đựng dung dịch HF trong bình thủy tinh .
- HS : Dung
dịch HF, tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn thủy tinh. Do
thành phần của thủy tinh chính là SiO2, khi cho dung dịch HF vào thì
có phản ứng :
SiO2 + 4HF → SiF4 + 2H2O
Ví dụ 3 : Khi dạy
về bài LƯU HUỲNH (ở lớp 10), sau khi học xong tính chất hóa học của lưu huỳnh
tác dụng với kim loại, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV :
Tại sao khi đánh rơi
nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét mà nên rắc bột S lên trên ?
- HS : Thủy ngân là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân
là một chất độc. Vì vậy, khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét
thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi làm cho quá trình
thu gom khó khăn. Ta phải rắc bột S lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác
dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
Hg
+ S ® HgS↓
Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn
giản hơn.
Ví dụ 4 : Khi
dạy bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM, sau khi học xong tính
chất của NaHCO3, giáo viên có thể liên hệ như sau :
- GV : Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ
dày ?
- HS : Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là
người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3
dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ
dày nhờ phản ứng :
NaHCO3
+ HCl ® NaCl +
CO2 + H2O
Ví dụ 5 : Khi dạy về bài PEPTIT
VÀ PROTEIN (ở lớp 12), sau khi học xong phần tính chất của protein, giáo viên
có thể liên hệ thực tế như sau
- GV : Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch
cua nổi lên ? Khi nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại ?
- HS :
Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự
đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ
bị kết tủa.
Ví dụ 6 : Khi dạy về bài AXIT CACBOXYLIC (ở lớp 11),
giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì sao
khi bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ? (Giáo viên có thể cung cấp cho
học sinh thông tin : trong nọc ong, kiến, nhện có axit HCOOH)
- HS : Do
trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất
bazo nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
2HCOOH + Ca(OH)2 ® (HCOO)2Ca + 2H2O
Ví dụ 7 : Khi dạy
về bài NHÔM VÀ HỢP CHẤT CỦA NHÔM, sau khi học xong tính chất của muối nhôm
sunsat, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV :
Vì sao phèn chua có thể
làm trong nước ? (Câu này nếu học sinh không giải thích được thì giáo viên phải
diễn giải cho học sinh hiểu)
- HS :
Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước :
K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O
Phèn
chua không độc, có vị chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều trong nước
nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành Al(OH)3
ở dạng kết tủa keo lơ lửng trong nước :
Al2(SO4)3
® 2Al3+ + 3SO42-
Al3+
+ H2O ® AlOH2+
+ H+
AlOH2+
+ H2O ® Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O ® Al(OH)3 + H+
Al2(SO4)3 + 3H2O ® 2Al(OH)3 + 3H2SO4
Chính
những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lửng ở trong nước này đã kết
dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn
và lắng xuống. Vì vậy, mà nước trở nên trong hơn.
Ví dụ 8 : Khi dạy
về bài AMIN (ở lớp 12), sau khi học xong tính bazo yếu của amin giáo viên có
thể liên hệ thực tế như sau :
- GV :
Tại sao khi nấu canh cá người ta thường nấu canh chua ?
- HS :
Bởi vì chất chua (axit lactic có trong nước dưa, axit axetic có trong dấm, axit
citric có trong chanh...) rất có duyên với cá. Nó nâng cao hương vị của món
canh chua cá. Mặt khác, nó còn hạn chế mùi tanh của canh khi ăn. Vì trong chất
tanh của cá có chứa hỗn hợp các amin như : đimêtyl amin, trimetyl amin. Hai
amin trên có tính chất bazo yếu. Trong các chất chua dùng để nấu cá đều có các
axit hữu cơ chúng có phản ứng với các amin có tính bazo yếu trong cá tạo thành
muối do đó sẽ giảm hay làm mất vị tanh của cá.
Ví dụ :
CH3COOH + (CH3)2NH ® CH3COOH2N(CH3)2
c) Liên hệ thực tế sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có
thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện
tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu
hỏi vì sao lại có hiện tượng đó ?
Ví dụ 1 : Sau khi học xong bài PHÂN BÓN HÓA HỌC (ở lớp 11). Để tạo cho học sinh ở khu vực làm nông nghiệp có thể
kiểm nghiệm trong đời sống, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV :
“ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ
nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu ca dao
mang hàm ý khoa học hóa học như thế nào ?
- HS : Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa : Vụ chiêm
khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt
và cho năng suất cao sau này.
- GV : Em hãy giải thích
câu ca dao trên ?
- HS : Do trong không khí
có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có sấm chớp (tia lửa
điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động :
N2 + O2 2NO
Sau đó : 2NO + O2 ® 2NO2
Khí NO2 sẽ tan vào trong nước
mưa :
4NO2 + O2 + 2H2O
® 4HNO3
HNO3
® H+ + NO3-
- GV : Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 – 7kg N cho mỗi mẫu
đất. Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ
không khí để chủ động bón cho cây trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại, cần
phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của ngành công nghiệp hóa chất “hướng về
không khí đòi lương thực” là càng lớn.
Ví dụ 2 : Sau khi
học xong bài TÍNH CHẤT CỦA KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên có thể liên hệ thực
tế như sau :
- GV :
Tại sao nhôm lại được
dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng lại được dùng làm dây dẫn điện
trong nhà.
-
HS : Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm
nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng
(khối lượng riêng của đồng là 9,1). Do đó, nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn
điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng
lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà việc
chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà
thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng.
Ví dụ 3 : Sau khi học xong bài
OZON, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV :
Vai trò của ozon trong đời sống và công nghiệp như thế nào ?
- HS :
Suy nghĩ trả lời
- GV
củng cố : Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các chất độc như
: phenol, hợp chất xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây
bệnh… có trong nước thải và ozon có thể tác dụng với các ion kim loại (sắt,
thiếc, chì, mangan…) biến nước thải thành nước sạch vô hại.
Trên tầng cao khí quyển 10 – 30km
quanh trái đất, ozon tồn tại thành một tầng khí quyển riêng, có khả năng hấp
thụ các tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia tử ngoại làm cho con
người, động thực vật bị đột biến gen, gây bệnh nan y… Gần đây do công nghiệp
phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ phản lực… thải vào khí
quyển một lượng bụi và khí ô nhiễm, thì ozon lại góp phần oxi hóa chất gây ô
nhiễm, cũng chính vì vậy mà tầng ozon bị mỏng dần. Trong vòng 50 năm gần đây, lượng ozon bị
thủng và gây ra không ít hiện tượng như : bão, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y…
Ví dụ 4 : Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở lớp 12), giáo viên có thể liên hệ thực
tế như sau :
- GV : Vì sao ban đêm không
để nhiều cây xanh trong nhà ?
- HS : Ban ngày, do có ánh
sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quanh hợp, hấp thụ CO2
trong không khí và giải phóng khí oxi
6nCO2 +
5nH2O (C6H10O5)n
+ 6nO2 ↑
Nhưng ban
đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ có quá trình
hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2, làm cho
phòng thiếu khí O2 và có nhiều khí CO2.
Ví dụ 5: Sau khi học xong bài
MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM THỔ, giáo viên có thể liên hệ thực
tế như sau :
- GV :
Tục ngữ Việt Nam có câu
: “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào ?
- HS : Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3. Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng :
CaCO3
+ CO2 + H2O ® Ca(HCO3)2
Khi
nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá
sẽ bị mòn dần.
- GV (Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác ) :
Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại
phương trình điện li :
CaCO3 Ca2+
+ CO32- (*)
Khi nước chảy sẽ cuốn
theo các ion Ca2+, CO32-, theo nguyên lí chuyển
dịch cân bằng thì cân bằng (*) chuyển dịch theo chiều chống lại sự giảm nồng độ
Ca2+, CO32- (chiều thuận) nên theo thời gian
nước chảy qua đá sẽ mòn dần.
Ví dụ 6 : Sau
khi học xong bài ANKAN, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Làm thế nào để biết dưới
giếng có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4...) và không
có khí oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt ?
- HS : Khi xuống giếng phải
đeo bình oxi. Còn muốn biết có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4...)
và không có khí oxi chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt.... thả xuống nếu nó
chết thì chứng tỏ có khí độc.
- GV : Trong các giếng đào đặc
biệt nhiều vùng đồng bằng thường có khí độc CO, CH4... và không có
khí O2. Mà người dân chúng ta có thói quen xuống giếng. Đã có nhiều
trường hợp tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp khí độc (CO) gây đông máu,
CH4 ... và không có oxi gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu
cũng chết.
Ví dụ 7 : Sau khi học xong bài IOT (ở lớp
10), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Nêu cách lấy dấu vân tay của tội phạm lưu trên các
vật ở hiện trường chỉ sau một vài phút thí nghiệm :
Lấy
một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó đem phần giấy
có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iot, dùng đèn cồn để đun
nóng phần đáy ống nghiệm. Đợi cho khí màu tím thoát ra (I2) từ ống
nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn cất tờ
giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng như trên
Do
đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ lưu lại
một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi gặp hơi
iot cho màu nâu (chú ý hơi iot rất độc không được ngửi).
Ví dụ 8 : Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT
QUAN TRỌNG CỦA NATRI, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì
sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn NaCl ?
- HS :
Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 1000C, nếu ta thêm NaCl
thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi là > 1000C. Do
nhiệt độ sôi của muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc
rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy, khi đó rau muống sẽ mềm hơn và
xanh hơn.
Ví dụ 9 : Sau khi học xong bài
CACBON (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV :
Vì sao khi cơm khê
người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi ?
- HS : Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của
cơm làm cho cơm đỡ mùi khê.
d) Liên hệ thực tế thông qua những câu chuyện
ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong
suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mải. Đó
cũng là cách kích thích niềm đam mê học hóa.
Ví dụ 1 : Khi dạy
bài HÓA HỌC VÀ VẤN ĐỀ MỐI TRƯỜNG (ở lớp 12), sau khi học xong phần “Ô nhiễm
không khí”, giáo viên có thể kể câu chuyện hài :
- GV :
+ Một nhà thông thái thuyết trình ở hội nghị
bảo vệ môi trường : “Tại sao người ta không nghĩ đến việc xây dựng thành phố ở
nông thôn nhỉ ? Ở đó không khí trong lành, lo gì bị ô nhiễm”
+ Cả hội
trường cười ầm lên.
Ví dụ 2 : Khi dạy về
bài SẮT (ở lớp 12), giáo viên có thể vào bài bằng câu chuyện :
Hồi đầu
thế kỉ XIX, các nhà bác học đã phát hiện ra sắt có trong máu người dưới dạng
huyết cầu tố (hemoglobin). Một sinh viên khoa Hóa đã làm gì khi nghe cô gái
mình yêu hỏi anh ta lấy gì làm bằng chứng cho tình yêu đang chảy cuồn cuồn
trong cơ thể anh ta ?
Anh ta đã
quyết định tặng người yêu dấu một chiếc nhẫn bằng … sắt, nhưng không phải bằng
sắt thông thường mà bằng sắt lấy từ chính máu của mình ! Cứ định kì lấy máu ra,
chàng trai thu được một hợp chất mà từ đó tách sắt ra bằng phương pháp hóa học.
Nhưng
chiếc nhẫn đã không bao giờ được đeo trên tay cô gái như một bằng chứng tình
yêu bởi … nó chưa được làm ra thì chàng trai đã chết vì bị mất máu, cho dù
lượng sắt lấy ra khỏi cơ thể chàng chưa tới … 3 gam !
Các chàng
trai, cô gái ngày nay vẫn nhớ câu chuyện này. Nhưng chẳng ai chứng tỏ tình yêu
bằng cách này nữa, cho dù thật cảm động.
Ví dụ 3 : Khi học
về bài BENZEN (ở lớp 11), ở cấu trúc của phân tử benzen, giáo viên có thể kể
cho học sinh nghe một giai thoại về Kekule :
Một lần,
Kekule ngồi trên xe buýt ở London và nghĩ mãi mà chưa tìm ra được một cấu tạo
nào tương ứng với tính chất của benzen. Ông mơ màng nhìn ra ngoài xe và chợt
thấy trên cành cây ở công viên có sáu con khỉ, con nọ đánh đu vào chân con kia
thành vòng sáu cạnh. Trong khi nô đùa, có lúc các chú khỉ bám với nhau bằng cả
hai chân hai tay, có lúc lại chỉ bằng một cặp tay chân. Một tia chớp nảy ra
trong đầu ông :
- “Phải
chăng sáu nguyên tử cacbon trong benzen cùng liên kết với nhau giống như sáu
chú khỉ con vui vẻ kia ?”
Kekule đã
xác định được cấu trúc vòng của benzen và xây dựng lí thuyết các hợp chất thơm
nhờ … các chú khỉ.
Ví dụ 4 : Khi học
về bài VẬT LIỆU POLIME, giáo viên có thể kể cho học sinh giai thoại “Phát minh do … ngủ quên” (khi dạy về
nilon) :
Một đêm
Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng, định chớp
mắt ít phút. Nhưng … ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt hoảng lo cho
tất cả công sức thí nghiệm : có lẽ đã tan thành mây khói ? Ai ngờ, khi vừa nhấc
chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa mềm nhũn và
kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất đẹp. Đó là sợi tổng
hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay.
Ví dụ 5 : Khi học bài CHẤT GIẶC RỬA, ở phần “Xà phòng”,
giáo viên có thể kể câu chuyên hài sau :
-
Mẹ : Tại sao con nghịch xà phòng làm bẩn hết nước
của mẹ ?
-
Con : Không phải con nghịch đâu! Thấy nước bẩn, con
lấy xà phòng rửa nước đấy. Như là mẹ rửa tay bẩn của con bằng xà phòng ấy mà!
e)Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện
tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày… sau khi đã học bài giảng. Cách
nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm
cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm. Giúp học sinh
phát huy khả năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn.
Ví dụ 1 : Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở
lớp 12), giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm “Hồ tinh bột tác dụng iot” để
học sinh có thể tự làm thí nghiệm kiểm chứng ở nhà.
* Cách làm : Lấy một ít cồn iot (mua ở nhà thuốc tây) bôi lên quả chuối xanh và quả
chuối chín.
* Giải thích (dựa vào kiến thức đã học, học sinh sẽ tự giải
thích được) : Do cồn iot là dung dịch của iot trong ancol etylic, iot gặp tinh
bột (trong chuối xanh) tạo ra phức màu xanh. Nhưng nếu là chuối chín thì không
có hiện tượng này (do chuối chín chuyển tinh bột thành đường glucozo).
Ví dụ 2 : Sau khi học xong bài SƠ LƯỢC VỀ MỘT
SỐ KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên có thể giới thiệu hiện tượng sau để học sinh
có thể tự kiểm nghiệm trong cuộc sống.
* Cách làm : Khi có người bị cảm, ta có thể đánh cảm bằng dây
bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen. Để dây bạc trắng sáng trở lại, ta sẽ ngâm vào
nước tiểu.
* Giải thích : Người bị cảm trong cơ thể sinh ra những hợp
chất dạng sunfua (S2-) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh
cảm bằng bạc, do S có ái lực mạnh với bạc nên xảy ra phản ứng tạo bạc sunfua
(Ag2S) kết tủa màu đen. Do đó chất độc được loại ra khỏi cơ thể và
cũng làm cho dây chuyền thành màu đen,
Ag
+ S2- ® Ag2S
Trong nước tiểu có NH3,
khi ngâm dây bạc vào thì sẽ có phản ứng :
Ag2S + 4NH3 ® 2[Ag(NH3)2]+
+ S2-
Nên Ag2S bị hòa tan, bề mặt dây bạc lại
trở nên sáng bóng.
Ví dụ 3 : Sau khi học xong bài ANKIN (ở lớp 11),
giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm vui “Đốt nước đá cháy” để học sinh có
thể tự làm thí nghiệm ở nhà.
* Cách
làm : Ta đặt sẵn vài mẫu canxi cacbua (đất đèn), rồi lấy một ít nước đá
bỏ vào ống bơ thấp và rộng miệng rồi bật diêm đốt trên mặt ống bơ. Thật kì lạ!
Nước đá bốc cháy.
* Giải
thích : Khi bỏ nước đá vào CaC2 sẽ có tác dụng với nước giải
phóng khí C2H2 :
CaC2
+ 2H2O ® C2H2 + Ca(OH)2
Khí
C2H2 thoát lên mặt nước đá, khi đốt nó sẽ cháy trông
giống hệt nước đá cháy vậy.
2C2H2 + 5O2 ®
4CO2 + 2H2O
Ví dụ 4 : Sau khi học xong bài
MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM THỔ, giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm sau để học
sinh có thể tự làm để kiểm nghiệm.
* Cách làm : Lấy vôi sống (CaO) cho
vào nước, rối thả ngay một quả trứng vào, trứng sẽ chín.
* Giải thích : Khi vôi sống gặp
nước sẽ xảy ra phản ứng :
CaO
+ H2O ® Ca(OH)2 + Q
Nhiệt
lượng tỏa ra rất lớn đến nổi làm cho nước sôi. Do vậy, sau khi cho vôi vào nước
rồi thả một quả trứng, trứng sẽ chín.
f)
Để nâng cao kiến thức hóa học thực tế, giáo viên có thể phối hợp với nhà trường
tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh như đưa các em đi tham quan các
nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp… Qua đó, các em sẽ có cơ hội tham khảo,
bổ sung các kiến thức còn trống và tìm hiểu xác thực hơn tác động của hóa học
đến đời sống của chúng ta.
III. HIỆU
QUẢ CỦA ĐỀ TÀI :
Sau khi áp dụng một số phương pháp
mở rộng kiến thức thực tế trong bài giảng hóa học vào các tiết dạy, tôi thấy đã
đạt được kết quả khả quan :
+ Lớp học sinh động, sôi nổi, giúp nâng cao hứng thú học tập của các
em.
+ Chất lượng bài giảng được nâng lên rõ rệt : học
sinh dễ tiếp thu và nhớ bài lâu hơn.
+ Giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập .
+ Phát triển năng lực chú ý, óc tò mò khoa học.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG :
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy
một vài điểm cần lưu ý sau :
1. Về phía giáo viên :
- Để thực hiện tốt, người
giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm
hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với học sinh. Hình thành
giáo án theo hướng phát huy tính chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lí
và hài hòa.
2. Về phía nhà trường :
- Nhà trường cần bổ sung thêm sách tham khảo cho giáo viên ở thư
viện.
- Nhà trường cần bổ sung thêm một số hóa chất và dụng cụ cho đầy đủ
để việc thực hành thí nghiệm được tốt hơn.
- Cần tạo điều kiện giúp đỡ cho một số giáo viên biết sử dụng công
nghệ thông tin.
- Nhà trường tạo điều kiện để cho giáo viên tổ chức Câu lạc bộ Hóa
học vui, các cuộc giao lưu kiến thức sẽ hình thành hứng thú cho học sinh một
cách hiệu quả.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-
Sách giáo khoa Hóa học lớp 10,
11, 12.
-
Phương pháp giảng dạy môn hóa
học ở trường THPT (Trịnh Văn Biều)
-
Hóa học và ứng dụng (Tạp chí
của hội hóa học Việt
-
Hóa học vui (Nguyễn Xuân
Trường) - NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội.
0 Nhận xét